MỤC LỤC
* CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN 3
1. Vườn nho 3
2. Thợ vườn nho 5
3. Tá điền và vườn nho 7
4. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 9
5. Suy niệm của An Phong 13
6. Người thợ làm vườn nho 15
7. Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là chính mình 17
8. Có một chủ vườn kia 20
9. Hành động và phản ứng. 23
10. Chủ vườn nho 26
11. Làm việc 29
12. Tá điền và vườn nho 33
13. Được và mất 36
14. Tá điền vườn nho 38
15. Dụ ngôn những tá điền sát nhân - JKN 41
* LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI 47
1. Niềm vui cứu rỗi 47
2. Cùng Mẹ xin vâng – Lm. Anmai 49
3. Lễ Đức Mẹ Mân Côi. 53
4. Xin Vâng 56
5. Lá sầu riêng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền 59
6. Kinh Mân Côi 62
7. Kinh Mân Côi 64
8. Hiệu quả của Kinh Mân Côi 66
9. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
10. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
11. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng
12. Tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời
13. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu
14. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38)
15. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng
16. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa
17. Mẹ Đầy Ơn Phước – R. Veritas
18. Phương thuốc thần diệu – Lm Trần Ngà.
19. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi
20. Kinh Mân Côi và Phúc Âm
21. Tôi là nữ tỳ của Chúa
22. Chuỗi Mân Côi
23. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?
24. Suy niệm của Lm. FX. Đào Trung Hiệu
25. Cầu nguyện và cải thiện đời sống
26. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
27. Đức Chúa Ở Cùng Bà
* CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
1. Vườn nho
Qua dụ ngôn những người tá điền nổi loạn chúng ta thấy
ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa đã rào giậu và chăm
sóc cho vườn nho của mình. Còn những tá điền nổi loạn
chính là dân Do Thái, dân tộc đã được Thiên Chúa chọn lựa
và trao ban cho muôn vàn hồng ân. Còn các đầy tớ được sai
đến là các tiên tri. Nhờ các tiên tri mà Thiên Chúa biểu lộ
thánh ý của Ngài cho họ, thế nhưng họ đã đối xử dã man và
tàn bạo đối với những người được Thiên Chúa sai đến. Nào
là đánh đập, nào là giết đi.
Sau cùng ông chủ đã phải sai phái chính người con trai
duy nhất của mình đến với họ, để tỏ cho họ thấy lòng nhân từ
thương xót vô biên của Ngài, nhất là sau những biến cố đáng
buồn đã xảy ra. Người con duy nhất này là hình ảnh tượng
trưng cho Đức Kitô, Đấng đã bị họ giết chết trên thập giá.
Cái chết khổ đau này làm cho Ngài liên tưởng tới lời thánh
vịnh 118: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến
nên tảng đá góc tường, đó là việc Thiên Chúa đã làm và thực
lạ lùng dưới mắt chúng ta. Tảng đá góc tường là nơi câu móc
những bức tường của toà nhà, nó nắm giữ một vai trò, một vị
trí rất quan trọng.
Cuối cùng Thiên Chúa đã phải bỏ rơi dân Do Thái, để
chọn cho mình một dân riêng mới, đó là Giáo Hội, để đem
lại cho Ngài nhiều hoa trái.
Câu chuyện trên cũng làm cho chúng ta nhớ tới hinh ảnh
vườn nho của tiên tri Isaia. Vườn nho này được chủ hết sức
chăm sóc với hy vọng sẽ có được những trái nho đặc biệt, thế
nhưng kết quả lại hoàn toàn trái ngược, khiến cho chủ phải
nổi giận: Còn việc gì nữa mà Ta đã không làm cho vườn nho
của Ta. Ta mong ước có được những trái ngon trái ngọt, vậy
tại sao nó chỉ cho toàn những trái chua trái dại?
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng tâm hồn chúng ta chỉ
là một cây nho cằn cỗi? Thiên Chúa cũng đã đổ xuống cho
chúng ta biết bao nhiêu ơn lành hồn xác, thế mà con người
chúng ta vẫn không thể đâm bông kết trái. Có lẽ chúng ta cần
phải dừng lại, để hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống,
trước khi nó đã quá muộn.
Nếu như chúng ta trung thành phụng sự Chúa, thì chúng
ta không có chi phải lo buồn sầu khổ. Trái lại, nếu chúng ta
đã có những thái độ và một nếp sống như dân Do Thái ngày
xưa, thì chắc hẳn, trong giờ phút sau hết, Thiên Chúa cũng
sẽ loại bỏ chúng ta và trao ban Nước Trời cho những người
khác là những người biết đâm bông và kết trái.
2. Thợ vườn nho
Dụ ngôn những thợ vườn nho phản loạn thuộc vào loại
các dụ ngôn Chúa dùng để tỏ lộ thân thế của Ngài là Đấng
Thiên Sai. Dụ ngôn này cũng cho thấy sự cô đơn bi thảm của
Chúa Giêsu, khi bị dân Ngài loại bỏ.
Như thường lệ Chúa Giêsu cấu tạo dụ ngôn từ các thực
tại mà Ngài nghe thấy trước mắt. Trong xứ Galilêa thời ấy,
những điền chủ bỏ tiền vào việc trồng nho. Họ giao cho thợ
làm vườn nho trông coi rồi trả lương. Đôi khi họ đi vắng xa,
chẳng hạn như ra nước ngoài, và để quan lý mùa màng, họ
sai những đầy tớ đến với những người thợ làm vườn. Theo
luật Do Thái, nếu chủ một thửa đất chết đi mà không có
người thừa kế, thì thửa đất ấy sẽ thuộc về người nào chiếm
ngụ đầu tiên. Điều này làm cho chúng ta hiểu được lý luận
của các thợ làm vườn nho: Đứa con thừa tự đây rồi, nào hãy
giết nó đi và chúng ta sẽ chiếm được gia tài của nó. Quả
thực, người con thừa tự mà chết, đất sẽ thành vô chủ và
thuộc quyền những kẻ cư ngụ.
Qua dụ ngôn này và qua đoạn kế tiếp với hình ảnh viên đá
góc bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu
rằng: Chính Ngài là người con bị bọn thợ làm vườn nho giết
đi, chính Ngài là viên đá góc bị thợ xây loại bỏ.
Một cách quyết liệt, dụ ngôn đã đưa ra câu hỏi sau đây:
Làm sao giới hữu trách của dân Do Thái lại đi tới chỗ loại
bỏ Đấng thiên sai? Tôi xin thưa vì họ đã buông thả theo bản
năng chiếm hữu của họ. Chủ vườn nho là Thiên Chúa, thủ
lãnh duy nhất của họ. Thế nhưng tinh thần chiếm hữu của
họ hệ tại việc áp đặt quan niệm riêng của họ về lề luật. Họ
dùng lề luật để thống trị dân, họ còn có cao vọng dùng dân
tộc của họ để lên ngôi thống trị thế giới. Các vị tiên tri đã đến
để nhắn nhủ họ, nhưng tất cả đều bị họ giết chết, và sau cùng
họ đã đi tới chỗ loại bỏ Đấng Thiên Sai, Con Một của Thiên
Chúa. Thay vì phục vụ cho lề luật và dân chúng thì họ đã
chiếm hữu, coi mình là chủ của lề luật và của dân chúng.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có thoát khỏi thái
độ tự coi là người làm chủ của Tin Mừng, của chân lý hay
không? Làm thế nào để phục vụ Phúc Âm mà không chiếm
hữu? Tôi xin thưa bằng cách để cho tinh thần Phúc Âm thấm
nhập vài cải tạo chúng ta, chứ chúng ta không đọc Phúc Âm,
rồi sau đó ngồi sắp xếp Phúc Âm theo ý riêng của chúng ta.
Ngày xưa các thầy thông luật đã lèo lái niềm trông đợi của
dân chúng tới những ước vọng thống trị trần gian. Ngày nay
cũng không thiếu gì những người muốn lợi dụng Phúc Âm
để quảng cáo cho một hệ thống chính trị hay một quan niệm
xã hội. Chúng ta không có quyền sử dụng và dùng Phúc Âm
vào một mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu đi đến Đức Kitô.
Nhiều người muốn chiếm hữu Phúc Âm để mưu cầu lợi ích
riêng tư, để rồi cuối cùng đã đi đến chỗ phủ nhận con người
Đức Kitô. Tin Mừng mời gọi chúng ta xây dựng cuộc sống
trên viên đá góc là Đức Kitô, Đấng chúng ta tìm kiếm và yêu
mến, chứ không nên lèo lái Ngài và Tin Mừng của Ngài vào
những ý đồ riêng tư của mình.
3. Tá điền và vườn nho
Nếu ruộng lúa, nương khoai, khóm trúc và con trâu là
những hình ảnh quen thuộc của người Việt Nam, thì người
Do Thái cũng có những hình ảnh thân thương đối với họ, đó
là đàn chiên và vườn nho.
Thực vậy, Chúa Giêsu sinh ra là người Do Thái, cũng đã
thừa hưởng nền văn hóa con chiên và cây nho ấy. Ngài đã
dùng những hình ảnh quen thuộc đó để nói lên quan điểm
của Ngài đối với mối tương giao giữa Thiên Chúa và Israel,
cũng như mối tương giao giữa bản thân Ngài đối với các tín
hữu của mình...
Chẳng hạn trong Tin Mừng theo thánh Gioan thì Chúa
Cha là người trồng nho, bản thân Ngài là cây nho còn các
môn đệ là ngành nho. Điều Ngài muốn truyền dạy là chúng
ta phải sống gắn bó mật thiết với Ngài.
Thế nhưng trong Tin Mừng theo thánh Matthêu thì hình
ảnh cây nho hay nói đúng hơn hình ảnh vườn nho được khai
thác cho một đề tài khác.
Chúa Giêsu đã nói tới lòng tốt của ông chủ vườn nho
không những sẵn sàng thuê mướn mọi người, nhất là những
kẻ thất nghiệp, kém may mắn, mà còn trả công đồng đều cho
cả những kẻ làm việc ít giờ nhất.
Ngài cũng đã nói tới những tá điền, là những người quản
lý có trách nhiệm canh tác vườn nho để giao nộp hoa lợi cho
chủ. Nhưng họ đã phản bội, đã đánh đập các sứ giả và đã
giết chết chính người con của chủ. Để rồi, chủ đã phải lấy lại
vườn nho mà trao cho người khác quản lý, tức là Giáo Hội.
Hôm nay, khi đọc lại dụ ngôn này, chúng ta sẽ ung dung
tự nhủ: Do Thái là Do Thái và Giáo Hội là Giáo Hội Chúa đã
trao đoàn chiên cũng như vườn nho của Ngài cho Giáo Hội,
người quản lý cuối cùng mà Chúa đã chọn, vì thế không còn
gì phải lo sợ: Làm thế nào mà Giáo Hội lại có thể giết hại các
tôi tớ Chúa và cướp đoạt vườn nho Chúa được.
Thế nhưng chúng ta không nên lạc quan với những nhận
định trừu tượng và lý thuyết trên đây mà phải nhìn vào thực
tại trước mắt: Và thực tại trước mắt cho thấy Giáo Hội chính
là chúng ta. Cộng đoàn dân Chúa, gồm những con người
bằng xương bằng thịt, mới chỉ được mời gọi và được ban ơn
sủng để nên thánh, hay nên hoàn thiện, nhưng thực tế thường
chưa thánh, chưa hoàn thiện, do đó vẫn còn có thể có những
kẻ lười biếng không chịu làm việc trong vườn nho, tệ hơn
nữa vẫn còn có thể có những kẻ hung ác đánh đập, hành hạ
và thậm chí giết hại những người tôi trung của Chúa, những
người làm vườn tốt, để chiếm lấy vườn nho cho mình. Chính
những ngôn ngữ chúng ta thường dùng cũng tố cáo sự chiếm
đoạt có khi là vô ý thức đó.
Thực vậy, chúng ta chẳng thường nói: Con chiên của tôi,
nhà thờ của tôi, giáo xứ của tôi, Giáo Hội của tôi. Trong khi
đúng ra phải nói là con chiên của Chúa, nhà thờ của Chúa,
giáo xứ của Chúa, Giáo Hội của Chúa.
Nhìn vào vườn nho Chúa, chúng ta thấy không thiếu
những cây nho cành lá xum xuê mà chẳng sinh được một
trái. Cũng chẳng thiếu những cành nho khô héo èo uột vì chỉ
còn dính hờ vào thân cây.
Điều đáng buồn hơn nữa là cũng chẳng thiếu gì những tá
điền, những người quản lý đã chiếm đoạt vườn nho Chúa làm
gia nghiệp riêng của mình. Họ mặc sức khai thác tùy theo ý
muốn, miễn sao có lợi cho mình. Không thiếu những kẻ chỉ
lo rào dậu, xây tường và kiến tạo những bồn đạp nho, nhưng
lại chẳng chăm sóc gì đến cây nho, khiến vườn nho Chúa
mọc lên những cỏ dại và gai góc.
4. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
CÂU CHUYỆN VƯỜN NHO
CÂU CHUYỆN ĐỜI TA
Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc đối với người Do
Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc này để thính giả dễ
hiểu điều Chúa nói về Nước Trời. Ý nghĩa dụ ngôn này như
sau. Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được
dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là
dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương
của Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô
lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ một đất
nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy phá của
các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai khiến các
tiên tri đến dạy dỗ họ. Quả thật dân Do Thái là một vườn
nho được Chúa trồng, chăm sóc từng li từng tí. Từ rào dậu
chung quanh đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến
tưới bón cắt tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại
bằng sự phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền
làm chủ của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ
họ. Họ còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để
chiếm lấy vườn nho làm của riêng họ. Nhưng họ có biết
đâu rằng nếu để Chúa là chủ thì vườn nho còn được bảo vệ,
được chăm sóc và họ còn được hưởng hoa lợi. Nhưng từ chối
quyền làm chủ của Chúa, vườn nho rơi vào cảnh hoang tàn,
đổ nát, không còn hoa trái. Và vì thế cuộc đời họ cũng bị diệt
vong.
Câu chuyện vườn nho không chỉ nói với người Do Thái
mà còn nói với tất cả chúng ta, đặc biệt các sinh viên học
sinh nhân dịp đầu năm học mới. Sinh viên học sinh là những
cây nho được Chúa ưu ái trồng trong vườn nho của Chúa.
Vườn nho đó là Nước Chúa, là Giáo Hội, là gia đình, là
trường học. Các cháu thiếu nhi, các bạn thanh niên, học sinh,
sinh viên trẻ trung là những cây nho non mơn mởn được
Chúa chăm sóc tưới bón trong tình thương bao la của cha
mẹ, trong sự tận tâm của thày cô giáo, trong sự nhiệt thành
quên mình của các linh mục, tu sĩ nam nữ. Chúa đặt lương
tâm như tháp canh để cảnh báo những nguy cơ đe dọa tàn
phá vườn nho. Để ngăn chặn thú dữ tàn phá, trẻ con nghịch
ngơm, kẻ thù quấy phá, Chúa cẩn thận rào dậu vườn nho.
Rào dậu là đặt ra những quy tắc luật lệ. Kỷ luật là phên dậu
vững chắc bảo vệ những cây nho còn non yếu, bảo vệ hoa
lợi khỏi kẻ thù đến phá hoại. Kỷ luật giúp bảo vệ cuộc đời
của các con. Không chỉ bảo vệ sự sống mà còn tất cả những
hoa trái tốt đẹp của sự sống. Bảo vệ tương lai của các con.
Chúa xây bồn ép nho. Bồn ép nho là nơi làm việc. Quả nho
phải trải qua quá trình ép, lọc, ủ mới lên men thành thứ rượu
nho thơm lừng làm đẹp cho xã hội. Cũng vậy các con phải
lao động vất vả qua nhiều công đoạn mới trở nên hữu ích cho
Giáo Hội và cho xã hội. Có thể nói cuộc đời của mỗi người
các con là một kỳ quan về tình yêu thương của Chúa. Chúa
tạo dựng nên các con để các con được hạnh phúc. Chúa đã
định sẵn cho các con một định mệnh tốt đẹp cao quý trong
thánh ý Chúa.
Tiếc là có nhiều người không hiểu được điều đó, nên đã
chối bỏ quyền Chúa làm chủ đời mình. Vì xua đuổi Chúa
nên ma quỷ đã xâm nhập cuộc đời họ. Có nhiều người đã bỏ
tháp canh lương tâm nên không còn tỉnh thức trước những
nguy cơ đe dọa tàn phá sự sống. Có nhiều người đã phá đổ
những phên dậu kỷ luật, biến vườn nho tâm hồn thành bãi đất
hoang mặc cho mọi người chà đạp, tàn phá. Có nhiều người
đã bỏ quên bồn ép nho, không chịu làm việc, chỉ rong chơi
ngày tháng nên cả cuộc đời tiêu tốn biết bao sự thương yêu,
tiền bạc, công sức của cha mẹ, thày cô giáo, các bề trên trong
Giáo Hội mà không sinh được hoa trái gì cho cuộc đời.
Các con, sinh viên học sinh thân mến,
Đầu năm học mới là dịp các con chỉnh đốn lại vườn nho
tâm hồn các con. Hãy để Chúa làm chủ cuộc đời các con.
Hãy tin tưởng định mệnh Chúa dành cho các con là định
mệnh tốt đẹp nhất. Tương lai Chúa dọn sẵn cho các con là
tương lai tươi sáng không gì có thể so sánh được. Hãy đón
nhận tình yêu thương của cha mẹ, thày cô giáo, và các bề
trên trong Giáo Hội. Tình yêu thương chăm sóc của các ngài
là nước mát tưới cho cây đời các con xanh tươi. Hãy tuân
theo sự hướng dẫn của tháp canh lương tâm để các con biết
phân biệt thật giả, trắng đen, thiện ác giữa lúc vàng thau lẫn
lộn, biết chọn lựa con đường tốt đẹp cho tương lai. Hãy sống
theo sự hướng dẫn của luật lệ, luật xã hội, luật học đường,
luật sự sống, luật Giáo Hội. Đó chính là cách tự bảo vệ trước
những lực lượng xấu, trước những cơn cám dỗ ngọt ngào
đang rình chờ trói chặt những cuộc đời ẻo lả, mềm yếu,
buông tuồng. Hãy làm việc trong bồn ép nho. Sự siêng năng
chăm chỉ, lòng say mê học tập chính là chìa khóa của sự
thành công.
Năm học mới là một ân huệ nhưng cũng là một trách
nhiệm. Các con được ban nhiều, các con sẽ bị đòi hỏi nhiều.
Năm học mới được ban tặng để các con sinh lợi. Sinh lợi để
xứng đáng với tình thương của Chúa. Sinh lợi để xứng đáng
với xã hội, quê hương đất nước. Sinh lợi chính là thăng tiến
bản thân, làm lợi cho chính các con trước hết.
Xin Chúa ban phúc lành cho năm học mới để các thày cô
giáo, các học sinh sinh viên thu lượm được nhiều kết quả tốt
đẹp, góp phần thăng tiến bản thân, gia đình, Giáo Hội và xã
hội. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa đã ban cho bạn sự sống và còn đặt biết bao
người, biết bao phương tiện, hoàn cảnh để nuôi dưỡng và
phát triển sự sống đó. Bạn có nhận biết điều này không?
2) Bạn có nhìn nhận Chúa làm chủ đời mình và có thái độ
xứng hợp không?
3) Phát triển là một trách nhiệm. Bạn có chu toàn trách
nhiệm đó không?
5. Suy niệm của An Phong
CHÚNG TA ĐƯỢC TRAO PHÓ CANH TÁC VƯỜN
NHO THIÊN CHÚA
Câu chuyện giữa Thiên Chúa với con người là một câu
chuyện tình. Tình yêu thương được trao ban, nhưng không
được đón nhận; tình yêu thật quảng đại, nhưng lại bị phản
bội cách trắng trợn. Giu-đa lấy cái hôn để nộp Thầy, đó là
một sự phản bội lại tình yêu thương làm cho Chúa Giêsu đau
lòng biết bao. Tình yêu của Thiên Chúa thật bao la; và sự
phản bội tình yêu đó lại là cái gì hết sức phũ phàng. Không
có gì đẹp bằng tình yêu, nhưng cũng không có gì ghê gớm
hơn tình yêu bị phản bội.
Trong một xã hội "đấu đá nhau", những trò đời đã nhiều
lúc trở nên khủng khiếp lắm rồi; nhưng khi "trò đời" lại diễn
ra nơi chính bầu khí của tình yêu, trong gia đình chẳng hạn,
thì nó lại trở nên khủng khiếp thế nào: cha mẹ lợi dụng con
cái; con cái bất hiếu, bạc đãi cha mẹ, con cái giết cha mẹ
cũng có... Quả thật, chính sự phản bội trong tình yêu là một
đòn chí mạng khiến con người bị gục ngã. Bao nhiêu bà
mẹ đã từng hy sinh mọi sự cho con cái, nhưng rồi cuối đời,
những năm tháng về già, đã gục ngã vì sự phản bội, vì sự bất
hiếu của đứa con cưng.
Chúng ta được trao phó cho mảnh vườn của Thiên Chúa,
cha mẹ được Thiên Chúa trao phó cho một gia đình để chăm
sóc; linh mục cũng được Thiên Chúa trao pho cho đoàn
chiên; các người có trách nhiệm với dân tộc, với cộng đoàn
giáo xứ, với các hội đoàn... đều là những người được Thiên
Chúa trao phó vườn nho của Ngài. Cuộc sống này là vườn
nho của Thiên Chúa và mỗi người chúng ta là những người
làm vườn nho của Thiên Chúa.
Câu chuyện về sự phản bội của tình yêu cho chúng ta
thấy rằng Tình yêu cũng chính là cái giá con người phải trả
lại cho Thiên Chúa. Ông chủ ban "người con" như một lời
mời gọi cuối cùng của tình yêu cho những người tá điền của
mình. Không có gì thật sự là tốt đẹp mà không cần trả giá
đâu. Sự trả giá ở đây chỉ là lòng trung thành, là mở lòng ra để
đón nhận chủ quyền của Thiên Chúa chứ không phải muốn
giành lấy gia sản của Người để hưởng thụ cho chính mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã trả giá cho đời sống chúng con,
không phải là trả một món nợ nào khác,
nhưng là món nợ của tình thương,
món nợ nặng nề nhất và cay đắng nhất.
Xin cho chúng con biết nhận ra
chúng con cũng mắc nợ nhau trong tình yêu thương
và cũng biết chấp nhận hy sinh vì tình yêu thương.
6. Người thợ làm vườn nho
(Trích trong ‘Suy Niệm Hằng Ngày’)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay thuật lại dụ ngôn “Người
thợ làm vườn nho”. Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc
đối với người Do Thái. Chúa đã dùng hình ảnh quen thuộc
này để giúp người nghe dễ hiểu điều Ngài muốn nói về Nước
Trời.
Thiên Chúa là chủ vườn nho. Vườn nho thoạt tiên được
dùng để chỉ dân Do Thái. Dân Do Thái được Chúa chọn là
dân riêng. Lịch sử dân Do Thái là lịch sử tình yêu thương
của Thiên Chúa. Vì yêu thương Chúa đã giải thoát họ khỏi
ách nô lệ Ai Cập. Vì yêu thương Chúa đã dành sẵn cho họ
một đất nước. Vì yêu thương Chúa bảo vệ họ khỏi sự quấy
phá của các nước lân bang. Vì yêu thương Chúa đã sai phái
các tiên tri đến dạy dỗ họ.
Quả thật dân Do Thái là một vườn nho được Chúa trồng,
chăm nom săn sóc từng li từng tí. Từ rào dậu chung quanh
đến xây tháp canh giữ. Từ xây bồn ép nho đến tưới bón cắt
tỉa. Nhưng sự thương yêu của Chúa được đáp lại bằng sự
phản bội. Người Do Thái không công nhận quyền làm chủ
của Chúa. Họ giết các tiên tri được sai đến dạy dỗ họ. Họ
còn giết cả Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa để chiếm lấy
vườn nho làm của riêng.
Mỗi người chúng ta hôm nay cũng là một tá điền mà
Thiên Chúa giao phó cho một vườn nho, đó là những tài
năng tinh thần, là của cải vật chất, để ta sinh thêm hoa lợi và
mang về cho Người..
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để ta phục vụ Chúa và
anh em, chứ không phải để ta tìm tư lợi, danh vọng, và khoái
lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi
của ta, là để ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải để ta ngày
càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho ta các tài năng là để ta sinh lợi
cho phần rỗi của mình. Nếu ta không biết sử dụng ơn lành
Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ khác.
Sẽ đến ngày ta phải tường trình về công việc vườn nho
mà Chúa đã trao phó cho ta. Sẽ đến ngày ta phải dâng lên
Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi. Bội thu
hay mất trắng là hoàn toàn do công việc ta đang làm hôm
nay.
***
Lạy Chúa! Xin cho con biết cộng tác vào vườn nho của
Chúa, để làm trổ sinh nhiều hoa trái thánh thiện và làm cho
Nước Chúa được nhiều người biết đến. Amen.
7. Từ vườn nho đến các tá điền: Hãy là chính mình
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Sau khi nghe câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể về
“những tá điền sát nhân”, các Thượng Tế và người Pharisêu
hiểu là Người nói về họ và họ tìm cách bắt Người. Dân Chúa
xưa, đặc biệt những người lãnh đạo, những người được gọi là
đạo đức hẳn thuộc nằm lòng bài ca về vườn nho của Ngôn sứ
Isaia (Is 5). Mẹ Hội Thánh lại trích cho chúng ta nghe trong
bài đọc thứ nhất Chúa Nhật này. Trong khi Ngôn Sứ Isaia
nhấn mạnh đến vườn nho là đoàn dân Chúa xưa, thì Chúa
Giêsu lại nhấn mạnh đến những tá điền là những người lãnh
đạo mà Chúa trao phó quản lý vườn nho. Dù là vườn nho hay
là người quản lý thì điểm chung hướng đến, đó là: hãy trở
nên chính mình. Nói nôm na là nho thì ra nho, quản lý thì ra
quản lý.
Nho ra nho: Ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rằng vườn
nho chính là đoàn dân Chúa xưa và chúng ta có thể hiểu
thêm mỗi người chúng ta là những cây nho, là những cành
nho (x. Ga 15). Các khâu canh tác như làm cỏ, bón phân, tỉa
cành sâu bệnh... thì chủ vườn nho là Thiên Chúa đã vuông
tròn. Vấn đề còn lại là chính cây nho phải sinh hoa trái tốt
tươi, ngọt ngào. Theo kinh nghiệm nông gia, khi đã đủ đầy
các điều kiện tự nhiên và sự chăm bón thì chuyện sinh hoa
kết trái của cây trồng, hệ tại ở khả năng cây “hấp thụ dinh
dưỡng” từ đất, từ trời và hệ tại ở việc cây “giảm phát sinh để
tăng phát dục”, nghĩa là giảm đâm cành, mọc lá mới để tăng
ra hoa, kết trái.
Đề hấp thụ dinh dưởng từ trời đất thì chính chúng ta,
những cây nho, tiên vàn phải gắn bó, kết hiệp với Thiên
Chúa. Cầu nguyện là một trong những phương thế tuyệt hảo
để kết hiệp với Thiên Chúa. Để gia tăng hoa trái tốt lành
thì việc hãm mình hy sinh là điều không thể thiếu. Như thế
để nho ra nho nghĩa là sinh hoa trái ngọt ngào thi Kitô hữu
chúng ta cần chuyên chăm cầu nguyện và hy sinh hãm mình.
Hằng năm cứ đến mùa Chay thánh thì đề tài ăn chay cầu
nguyện được nhấn mạnh và chúng ta nghiệm thấy ngay các
hoa trái trổ sinh.
Quản lý ra quản lý: Người quản lý là người được trao phó
một sự gì đó. Một việc gì đó để bảo quản, giữ gìn, chăm nom
và dĩ nhiên theo tiêu chí mà người chủ yêu cầu. Các tá điền
trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể được hiểu như là
những người quản lý. Và tiêu chí người chủ đưa ra là đến kỳ
thu hoạch, vườn nho phải sai hoa, mộng trái. Theo chiều kích
xã hội thì những người quản lý là những người được giao
phó các chức vụ của công quyền. Họ được trao phó đoàn
dân của một tập thể, của một đất nước... Theo chiều kích tôn
giáo, thì những người quản lý là những vị mục tử. Họ đuợc
trao phó đoàn chiên là các tín hữu của tôn giáo mình. Dù là
các mục tử trong Hội thánh này Hội thánh kia hay là những
người nắm giữ công quyền trong xã hội thì chỉ một mình
Thiên Chúa là người chủ duy nhất. Thánh Phaolô minh định
điều này khi nói rằng các chính quyền hợp pháp đều là do
Chúa đặt định (x.Rm 13,1)
Trong khoảng thời gian chờ đến mùa vụ, thì ông chủ
thỉnh thoảng sai gia nhân của mình đến nhắc nhở những
người quản lý về bổn phận và trách vụ của họ. Và bên cạnh
đó chắc chắn có sự đánh giá về những gì mà những người
quản lý đang thực thi. Tốt thì khen và khích lệ. Xấu thì chê
và phê bình sửa sai. Trong lịch sử dân Chúa xưa, các ngôn
sứ chính là những gia nhân mà ông chủ vườn nho đã sai đến.
Thay vì nghe những ý chỉ của Thiên Chúa qua các sứ ngôn
thì những người tá điền là nhưng người quản lý đã bách hại
các ngài.
Thiên Chúa, người chủ vườn nho vẫn kiên trì nhẫn nại
đến cùng. Người đã sai chính Con Một đến với hy vọng là
những người quản lý kia sẽ nể mặt mà nghe theo. Thế nhưng
sự tham lam đã làm cho tâm hồn những người quản lý thành
ác độc. Họ đã nhẫn tâm giết chết Người Con Một của ông
chủ. Tưởng rằng sẽ từ vị thế quản lý trở thành chủ nhân của
vườn nho, nhưng họ đã lầm. Ông chủ sẽ tru di họ và trao
vườn nho cho những người khác.
Câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã làm chột dạ những
vị lãnh đạo DoThái giáo thời bấy giờ. Chuyện dụ ngôn này
cũng đã ứng với nhiều triều đại vua chúa các nước trên thế
giới. Chuyện dụ ngôn này cũng ứng với những chính phủ
nắm giữ công quyền của các quốc gia. Và chuyện dụ ngôn
này cũng đáng làm cho các vị mục tử giật mình tự kiểm.
Nho ra nho, quản lý ra quản lý. Nếu không thực là mình
thì sẽ đến lúc phải bị loại trừ. Cành nho nào sinh hoa trái sẽ
được chăm bón để trái hoa xum xuê thêm nhiều. Cành nào
không sinh trái thì phải bị chặt đi. Nó sẽ khô héo và người ta
sẽ bỏ nó vào lửa mà thiêu đốt đi (x.Ga 15,6). Người quản lý
nào chuyên chăm cứ đến giờ mà phân phát lúa thóc cho kẻ
ăn, người ở, thì sẽ được ân thưởng khi chủ về. Trái lại viên
quản lý nào chểnh mảng, mãi mê chơi bời ăn uống mà bỏ
bê bổn phận, thậm chí còn hành xử bạo lực với người dưới
quyền, thì sẽ bị chung số phận với quân bất lương, ở nơi phải
khóc lóc và nghiến răng (x.Lc 12,41-48).
8. Có một chủ vườn kia
“Chủ vườn” là từ quan trọng trong dụ ngôn này, cùng với
một từ khác tương ứng với từ đó: “hoa trái”. Người chủ vườn
này muốn có những hoa trái đặc biệt. Với lòng quan tâm
chăm sóc, ông trồng một vườn nho và mong đợi một mùa thu
hoạch tốt đẹp, nhưng các tá điền không có vẻ gì là hoạt động
cả. Chủ vườn sai đầy tớ tới: tá điền giết chết họ. Thế là chủ
vườn thực hiện một hành vi điên rồ: ông sai chính con trai
của mình đến và con trai ông cũng bị giết.
Chúng ta biết rằng người con trai này chính là Chúa
Giêsu, nhưng vườn nho này là vườn nho nào? Những thợ làm
vườn nho là ai? Chúng ta phải làm gì trong câu chuyện này?
Từ một vườn nho ở trên một sườn đồi, dụ ngôn kể chuyện
những tương quan giữa Thiên Chúa và con người, điều mà
Tin Mừng gọi là Nước Trời: “Ta sẽ là Chúa của các ngươi,
và các ngươi sẽ là dân của Ta”, Chúa đã nói như thế. Đây
là món quà đẹp nhất của Thiên Chúa, ông chủ của mọi sự,
người thầy của mọi sự.
Thiên Chúa mong ước ban Nước Trời cho chúng ta. Là
tình yêu Thiên Chúa muốn làm cho tất cả mọi người thành
một dân tộc của tình yêu. Điều này muốn nói lên hai điều
luôn luôn liên kết với nhau một cách chặt chẽ: một dân tộc
gồm những con cái được Thiên Chuá yêu thương và yêu
thương Thiên Chúa; một dân tộc gồm những người anh em
yêu thương nhau. Đó là vườn nho và đó là những mùa hái
nho.
Để thực hiện dự định vĩ đại này, Thiên Chúa đã chọn một
dân tộc nhỏ làm hạt giống, làm men, đó là Israel. Ngài đã
giao phó vườn nho của Ngài, tức là dự án về Nước trời cho
dân tộc này.
Thất vọng. Được các vị lãnh đạo tôn giáo dẫn dắt tồi,
Israel không sử dụng cho đúng những đặc ân của mình. Chúa
sai đến cho Israel những sứ ngôn, những tiên tri, nhưng nước
này không nghe họ. Coi thường chủ vườn, các tá điền xấu
tin rằng họ có thể một mình làm chủ vườn nho của Chúa. Họ
chăm sóc vườn nho không tốt bởi vì các ân sủng của Thiên
Chúa chỉ sinh hoa kết quả với Thiên Chúa mà thôi.
Trong một nhiệt tình yêu thương tối hậu, Thiên Chúa sai
Con Trai của Ngài để dạy cho các thợ làm vườn nho biết
cách làm cho vườn nho của Chúa sinh lợi, biết cách sống vì
Nước Trời như thế nào. Nhưng hết rồi, vào cuối Tin Mừng,
Chúa Giêsu nhận thấy rằng chính Ngài cũng không được
lắng nghe, các nhà lãmh đạo dân chúng muốn bóp nghẹt
tiếng nói của Ngài.
Thế rồi Ngài đưa ra một lời đe doạ hoàn toàn không
khoan nhượng cho những ai tự xem mình là những người
được ưu tiên vĩnh viễn, những người chủ của các ân sủng của
Thiên Chúa. Cho tới lúc đó, Chúa thường đe doạ họ và thậm
chí sửa phạt họ một cách nghiêm khắc, nhưng không hề có ai
dám nói với họ rằng Thiên Chúa sẽ giao phó vườn nho của
Ngài cho những người khác. Dầu sao thì đây cũng chính là ý
nghĩa của dụ ngôn ghê gớm này mà những từ cuối cùng rơi
xuống như một cái máy chém: “Nước Trời sẽ được cất khỏi
các ngươi và sẽ được trao cho dân khác làm cho trổ sinh hoa
trái”,
Lời đe doạ đã được thực hiện, người Kitô hữu tiếp tục
sự nghiệp của người Do thái. Điều này không xoá bỏ sự vĩ
đại của dân tộc đã được chọn đầu tiên và vẫn là một dân tộc
được chọn này (Rm 11, 28-29). Dân Do thái vẫn tiếp tục loan
báo Đấng Tối Cao bằng đức tin sâu xa và thường rất anh
hùng của họ. Tiếp theo sau và cùng với dân Do thái chúng ta
nên giòng mạc khải Do thái –Kitô giáo. Và dụ ngôn này phải
làm cho chúng ta suy nghĩ về sự vĩ đại và trách nhiệm của
chúng ta. Thật là một sứ mạng nặng nề! Sống tình yêu, loan
truyền tình yêu khắp nơi, tạo ra những kết quả thực sự của
Nước Trời. Chúng ta có xứng đáng không? Người Kitô hữu
và những nhà lãnh đạo tín hữu có tỏ ra trên khắp thế giới như
là những tá điền tốt, những thợ làm vườn nho tốt của ông chủ
duy nhất của vườn nho hay không?
9. Hành động và phản ứng.
Những người Biệt phái không sẵn sàng trở lại. Đó là
một thái độ thụ động. Nhưng đi xa hơn, họ bước sang hành
động quyết định chống lại Đức Kitô. Trong ngụ ngôn thợ
làm vườn nho, Thày chí thánh đã mô tả cho chúng ta như
sau: Israel là một dân gồm những mục tử và nông dân. Các
dụ ngôn Phúc âm là những hình ảnh thu nhặt trong đời sống
đồng áng. Trước kia nơi các tiên tri và các thánh vịnh, quốc
gia này đã được so sánh với một vườn nho được Thiên Chúa
vun trồng săn sóc đặc biệt. Chúa chờ hái lượm những chùm
nho chĩu nặng tức là mong thấy bay tỏa hương thơm đạo
đức và lòng tùng phục Thiên Chúa. Nhưng ít khi Chúa mãn
nguyện. Bây giờ, khi Chúa đến, giờ quyết định của dân tộc
đã điểm.
Đó là giờ quyết định thực sự! Bổn phận mà Israel chu
toàn lại bị coi như là một cố gắng vô ích sao? Quả thực các
vị thủ lãnh dân tộc có một đời sống tôn giáo nông cạn khô
khan. Ngoài ra họ bắt đầu công kích Chúa, mặc dầu Ngài đã
góp công phục hưng quốc gia. Cha ông họ đã giết các tiên tri,
những thừa sai của Thiên Chúa, còn chính họ là con cái lại
quyết định giết Chúa.
Theo phương diện lịch sử, giờ quyết định đã điểm vì tất
cả quá khứ của Israel hướng về ngay vị cứu tinh xuất hiện.
Tất cả những hy vọng quy về vị cứu tinh là tột đỉnh mong
đợi. Đây Chúa Cứu Thế đã đến và số phận dân tộc đã biểu
lộ. Các thủ lãnh đều có trách nhiệm về điều đó. họ tự quyết
chống lại Ngài, vì họ muốn một vị khác đáp lại những đòi
hỏi sai lầm của họ. Họ không những đã từ chối, nhưng nhất
là công kích đầy căm phẫn nữa. Đấng phải đến cho họ sự
phục sinh, lại bị chính họ xử tử.
Lời Chúa đòi p hải có lập trường vững chắc, nhất là khi
hành động. Ngược lại với lời nhân loại, lời Chúa bắt phải dấn
thân. Người ta có thể gạt bỏ những ý tưởng triết học, gạt bỏ
hệ thống suy luận của một tư tưởng gia hay những tác phẩm
của văn sĩ. Người ta ít chú ý đến những thứ đó, nên một năm
khó lòng mua được một số sách, do đó nhiều khi sách vở
phải bán theo giá giấy. Trái lại lời Chúa, tiếng gọi và đòi hỏi,
đòi phải chọn lựa khi nghe biết. Không chú ý đến lời Chúa
là phủ nhận lời Chúa và như vậy là gạt Chúa sang một bên.
Làm như thế tức là tiến thêm một bước nữa về sự dữ. Trong
khi chối từ những gì đem lại ơn cứu độ, người ta tự ý hướng
về tình trạng khai trừ. Kitô giáo, không phải chỉ loan báo
những chân lý để bàn luận hay xác định lập trường tùy tiện.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta, muốn chúng ta dấn thân phục
vụ Ngài. Vì thế từ chối có nghĩa là nổi loạn. Lời Chúa là nền
tảng cho đời sống. Ai chối bỏ là chối bỏ chính Chúa: Hòn đá
không ở một nơi, nhưng theo Đức Kitô, hòn đá đó sẽ nghiến
nát ai chối bỏ nó để ở lại giữa loài người.
Tình trạng cuộc sống không bất động: mỗi hành động
nhân loại đều được Thiên Chúa đáp ứng cách khác nhau.
Thực ra, Ngài không chỉ sửa phạt, Ngài sẽ không tiêu diệt
những ai từ chối, nhưng đôi khi Ngài chịu đựng để biến đổi
sự dữ thành sự lành. Trước hành động của kẻ thù, Ngài phản
ứng lại theo đức công bình và nhất là phản ứng theo lòng yêu
thương.
Adam từ chối Thiên Chúa đã gọi mình, nên đánh mất
Thiên Đàng, nhưng đồng thời ông lại được hứa Đấng Cứu
Thế. Lỗi phạm, nhờ ơn sủng biến thành lỗi có phúc. Đại
hồng thủy đưa đến giao ước với Noe. Tháp Babel biểu thị
sự chia rẽ nhân loại, cũng biểu thị ơn gọi của Abraham là
người biến Israel thành dân duy nhất của Chúa. Việc bán
Giuse sang Ai Cập trở nên sự cứu độ cho anh em. Pharaon
cứng lòng đưa dân Chúa đến việc ký kết giao ước với Thiên
Chúa. Lịch sử tiếp tục thể hiện cho tới lúc Israel từ chối Đức
Kitô, đóng đanh Chúa họ trên núi Calvariô. Sự thất bại tuyệt
đối đã được ân sủng tác động để hình thành giao ước mới
với toàn thể nhân loại, và hy tế cứu độ của Chúa. Trong suốt
lịch sử Giáo Hội, máu các vị tử đạo không ngừng trở nên hạt
giống làm trổ sinh những kitô hữu mới. Cho tới ngày chung
cuộc, việc xuất hiện người chống lại Đức Kitô sẽ kêu mời
Đức Kitô tái giáng. Trái đất bị chúc dữ sẽ báo hiệu một thế
giới mới, để tất cả tăm tối sẽ bị ánh sáng toàn thắng. Tất cả
sự chết sẽ bị sự sống thống trị, tội lỗi sẽ bị ơn sủng chế ngự.
Hòn đá bị thợ ném đi, được Chúa can thiệp để trở nên hòn
đá góc. Và nước Chúa được ban cho một dân tộc ưu tú mới,
vườn nho được phó thác cho những người thợ mới; những
người ấy nhờ tác động của ơn sủng, sẽ gặt hái hoa trái chín
mọng do ơn Chúa. Vậy, những hầm rượu và kho lẫm Thiên
Chúa được tràn đầy phong phú, rồi những kẻ ưu tú được lệnh
trao hoàn cho Ngài. Tất cả biến thành ơn sủng.
10. Chủ vườn nho
Số phận của những kẻ chống lại chủ vườn nho sẽ như thế
nào?
Mặc dù đoạn Tin Mừng không nói rõ, nhưng chúng ta
cũng thấy được qua câu trả lời của những người nghe Chúa
Giêsu:
- Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác
thuê vườn nho để cứ đến mùa, họ sẽ nộp phần hoa lợi.
Từ câu trả lời này, chúng ta bước vào lãnh vực siêu nhiên.
Vậy số phận của những kẻ chống lại Thiên Chúa sẽ như thế
nào? Chúa Giêsu cũng đã từng lên tiếng về vấn đề này:
- Viên đá bị thợ xây loại bỏ, sẽ trở thành viên đá góc
tường. Hễ ai vấp ngã trên viên đá này, thì kẻ ấy sẽ bị dập nát
và hễ viên đá này đè lên ai, thì kẻ ấy sẽ bị tan xương.
Câu nói này làm cho chúng ta liên tưởng tới lời cảnh cáo
của Chúa Giêsu được gửi tới cho Phaolô trên con đường đi
Đamas:
- Khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Kinh nghiệm đau thương này đã được thực hiện qua
giòng thời gian nơi các dân tộc cũng như nơi những cá nhân.
Trước hết là nơi các dân tộc.
Tôi xin đưa ra hai trường hợp điển hình. Trường hợp thứ
nhất, đó là trường hợp của dân Do Thái.
Trong Cựu ước, họ là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển
chọn và yêu thương cách đặc biệt. Thế nhưng mỗi khi họ
quay lưng chống lại Ngài, bằng cách sống bê tha tội lỗi và
nhất là quì gối thờ lạy những thần tượng nhảm nhí, thì lập
tức đất nước họ bị quân thù dày xéo còn bản thân họ thì bị
đi lưu đày, vì khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi
nhọn.
Trong Tân ước, họ là một dân tộc được nghe những lời
Ngài truyền dạy và được thấy những việc kỳ diệu Ngài đã
làm, thế nhưng cõi lòng họ vẫn chai đá, để rồi những lời
Chúa cảnh cáo chỉ là như một thứ nước đổ đầu vịt mà thôi.
Họ chống đối Chúa, họ vu oan cho Chúa và sau cùng họ đã
giết chết Chúa một cách ô nhục trên thập giá. Nhưng rồi sau
đó vào năm 70, thủ đô Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa
dưới sức mạnh của quân đội La Mã do tướng Titus chỉ huy.
Còn bản thân họ thì phải rời bỏ quê hương, tản mát khắp bốn
phương trời, mãi cho đến năm 1950, nhờ áp lục quốc tế, họ
mới được trở về khôi phục lại đất nước, vì khốn cho ngươi,
nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Trường hợp thứ hai là nước Pháp trong cuộc cách mạng
vào năm 1789. Những kẻ khởi xướng cho cuộc cách mạng
này đã bài xích Giáo hội, chối bỏ Thiên Chúa, coi lý trí là
thần tượng tuyệt đối có thể giải quyết được mọi vấn đề. Thế
nhưng hậu quả mà cuộc cách mạng này đã đem lại như thế
nào thì lịch sử đã cho chúng ta thấy: máy chém mọc lên
ở khắp nơi, rồi cướp của giết người xảy ra ở khắp chốn,
đến nỗi chịu không nổi cảnh tượng hỗn độn vô trật tự ấy,
Robespierre đã phải truyền dán trên khắp các ngả dường
những tấm bích chương với hàng chữ: Nhân dân Pháp tin
vào Thiên Chúa. Quả thực, khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ
chân đạp mũi nhọn.
Bây giờ xuống tới lãnh vực cá nhân, số phận của những
kẻ chối bỏ Thiên Chúa cũng không hơn gì. Tôi xin đưa ra hai
trường hợp điển hình.
Trường hợp thứ nhất là trường hợp của Mirabeau. Ông
là người đi tiên phong cho cuộc cách mạng Pháp, hăng hái
đả phá Giáo hội và chối bỏ Thiên Chúa. Nhưng rồi sau đó,
ông đã phải đau khổ và tuyệt vọng, nhất là khi phải đối đầu
với cái chết. Ông đã chết bằng một cái chết đớn đau và điên
khùng.
Trường hợp thú hai là trường hợp của Voltaire. Suốt đời,
ông đã tìm cách hạ bệ Thiên Chúa và Giáo hội. Chính ông
vàp năm 1753 đã viết: Thiên Chúa phải về hưu vì đã hết thời.
Đúng hai mươi năm sau, nghĩa là vào năm 1773 ông đã chết
một cách thê thảm, tru tréo như một con chó dại, đến nỗi bà
giúp việc phải thốt lên: Nếu quỉ có thể chết, thì cũng không
chết một cách dữ tợn hơn Voltaire. Thiên Chúa vẫn còn mãi,
nhưng khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
Từ những sự việc cụ thể xảy ra cho cá nhân cũng như cho
dân tộc, tôi muốn đi tới một kết luận:
- Xe trước đã đổ, thì xe sau phải coi chừng.
Xem người phải nghĩ đến thân, bẳng không, nếu cứ bình
chân như vại, đắm chìm trong tội lỗi, chắc chắn số phận
chúng ta cũng sẽ không hơn gì bởi vì chủ vườn nho sẽ triệt
hạ hết những kẻ xằng bậy và sẽ trao vườn nho cho người
khác. Như thế có nghĩa là Nước Trời sẽ bị cất khỏi bàn tay
chúng ta, đề rồi chúng ta sẽ bị trầm luân muôn kiếp.
11. Làm việc
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn,
vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử
vừa có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ nước Chúa, được
trao cho dân Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.
Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những
người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là hàng loạt các ngôn
sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết
chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, nước Chúa được
chuyển sang một quốc gia khác là Hội Thánh, một dân phổ
quát và Công giáo, sẽ lan tràn đến tất cả mọi quốc gia.
Chúng ta thấy dụ ngôn vừa có tính cách lịch sữ vừa có
tính cách tiên tri, nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có
thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân
Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn
sứ Chúa sai đến với họ. Đàng khác, nói tiên tri về đạo Chúa
sẽ lan tràn khắp các dân không phải dân Do Thái. Hơn nữa,
dụ ngôn cũng cho chúng ta thấy rõ thân thế và sứ mạng của
Chúa Giêsu. Những người được sai đến trước Ngài, dù nổi
tiếng đến đâu như Elia, Isaia, Giêrêmia, Gioan Tiền Hô...
cũng chỉ là đầy tớ, còn Ngài mới là con trai duy nhất của
Chúa Cha. Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều
đáng lưu ý và ghi nhớ. Sau đây chúng ta tìm hiểu một điều
thôi, đó là các tá điền làm vườn nho. Bài Tin Mừng cho biết:
ông chủ vừa trồng xong vườn nho, lẽ ra ông phải chăm bón
để kiếm hoa lợi, nhưng ông lại cho các tá điền canh tác để
đến mùa thu hoa lợi. Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các
tá điền. Nhưng có những tá điền đã không làm đúng công
việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm
lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông chủ. Chúng
ta có thể áp dụng như sau: mỗi người chúng ta là một tá điền
mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn
phúc và chúng ta có bổn phận phải đem hoa lợi về cho Chúa.
Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo
sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta
làm.
Thực vậy, những ơn phúc Chúa ban như những tài năng
tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết sử dụng
chúng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm
lợi cho Chúa. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn
liếng khác nhau về nơi chốn, thời gian, khả năng, dịp tiện.
Mỗi người, không ai giống ai cả, nhưng ai cũng phải làm lợi
ra với số vốn liếng Chúa ban. Chúng ta không giống nhau về
khả năng, nhưng có thể giống nhau về cố gắng. Thà cố gắng
mà không có tài còn hơn có tài mà không cố gắng làm lợi
cho Chúa.
Vậy mọi người chúng ta đều có một điều giống nhau, đó
là đời sống để làm việc: việc lớn, việc nhỏ. Đa số chúng ta
ai cũng muốn làm việc lớn, được nhiều lợi, được người khác
biết đết. Nhưng Chúa bảo chúng ta hãy làm việc nhỏ. Chúng
ta cần trung tín trong việc nhỏ bé trước đã. Chỉ khi nào
chúng ta làm được những việc nhỏ bé, chúng ta mới có khả
năng làm những việc lớn lao hơn. Những việc nhỏ chính là
nấc thang đưa tới thành công lớn. Không ai có thể làm việc
lớn cho Chúa nếu trước hết họ không làm được những việc
nhỏ cho Ngài. Nếu chúng ta không trung thành trong việc
nhỏ thì không ai tin tưởng trao cho chúng ta việc lớn hơn.
Chúng ta hãy nhớ: không có việc gì quá nhỏ mà không đáng
làm, và cũng không có việc gì quá nhỏ mà không đem lại lợi
ích. Vấn đề là chúng ta có chịu làm hay không.
Có một câu chuyện ngụ ngôn, với tựa đề là “vị thiên thần
dễ tính” kể lại như sau: Ngày kia, có hai người xin vị thiên
thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của Thiên
Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả
năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu
ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện: “Ngươi sẽ được quyền lực
để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức
làm những việc thông thường”. Chàng ta đọc được ý nghĩ
của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh
vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh
những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những
thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người
một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không
làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ
áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình
xưa. Rồi sau cùng sức khoẻ cũng giã biệt chàng, thân thể trở
nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa,
chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khoẻ ngoài
việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm
tới những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và
nhắn thêm: “Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào
đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu”. Chàng
bình thản tiếp tục sống cuộc đời của mình, hằng ngày chàng
vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một
người chồng chung thuỷ, một người cha hiền tận tuỵ với con
cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào
hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui
tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là
được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha
nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân
sâu thẳm.
Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường
trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được
sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ.
Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để
phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng
sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Tóm lại, chúng ta hãy siêng năng làm việc để chu toàn
bổn phận của mình. Chúng ta hãy tận dụng tài năng, sức lực,
thời giờ, của cải Chúa ban để xây dựng sự nghiệp đời này và
sự nghiệp đức tin trên nước trời.
12. Tá điền và vườn nho
Có một bản tin gây nhiều xúc động, đó là: một thanh
thiếu niên phạm pháp được trả tự do lạm thời, nhờ hạnh
kiểm tốt trong thời gian bị giam tù. Vì không còn cha mẹ, nên
em này được một người trong vùng nhận làm con nuôi và em
được đối xử tốt đẹp như năm người con khác trong gia đình,
không chút kỳ thị phân biệt. Cha mẹ nuôi cũng như anh chị
em mới trong gia đình cố gắng làm hết mọi sự để giúp em
cảm nhận được tình yêu thương chân thành trong gia đình
mới.
Một hôm, em được phép cha mẹ cho đi tham dự buổi tiệc
sinh nhật của người bạn với lời nhắn nhủ là “hãy trở về nhà
trước 11 giờ khuya”. Nhưng 11 giờ, rồi 12 giờ và 1 giờ sáng
mà em vẫn chưa về. Mọi người trong nhà đã đi ngủ, chỉ trừ
cha mẹ nuôi của em canh thức đợi em về với nhiều lo tắng,
cuối cùng 2 giờ sáng em mới về tới nhà. Không một lời giải
thích hay xin lỗi cha mẹ nuôi gì cả, nhưng phần cha mẹ nuôi
chỉ trách nhẹ em một câu: “Này con, lần sau con ráng về
đúng giờ để cha mẹ không phải lo lắng đợi chờ con nữa”.
Sáng hôm sau, khi mọi người trong gia đình kẻ đi làm
người đi học, chỉ còn lại mẹ nuôi ở nhà, và bất ngờ, người
thiếu niên này dùng một khúc sắt từ sau lưng tiến lại đập đầu
người mẹ nuôi của em. Trước toà án, em không chút hối hận
và người cha nuôi của em trong cơn đau khổ tột cùng chỉ
thốt lên một lời: “Nó đã giết chết người vợ thân yêu của tôi.
Đây là một hành động vô ơn tột cùng”.
Sự việc trên có thể giúp chúng ta phần nào hiểu thấu được
dụ ngôn: “Người tá điền và vườn nho” được nhắc lại trong
bài Tin Mừng hôm nay. Đó là thái độ vô ơn tột cùng của
những người giữ vườn nho đáng trách, họ đã khước từ và
giết hại những người làm mà ông chủ sai đến, rồi cuối cùng
họ cũng giết chết luôn cả người con của ông chủ.
Thái độ vô ơn tột cùng này cũng là một lời cảnh tỉnh cho
mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay, qua đó nhắc nhở
chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với Thiên
Chúa. Như ông chủ vườn nho, Thiên Chúa nhân lành luôn
thông cảm và tha thứ những lỗi tầm của chúng ta, một khi
chúng ta biết trở về với Ngài.
Mặt khác, Thiên Chúa trao cho chúng ta công việc chăm
sóc vườn nho của Ngài, để chúng ta làm trổ sinh hoa trái
tốt đẹp. Hơn nữa, Ngài đã không ngừng sai những sứ giả
của Ngài đến để nhắc nhở chúng ta tích cực chăm sóc vườn
nho cho Ngài. Vì thế chúng ta phải có bổn phận biết ơn
là dâng lại cho Ngài những điều tốt đẹp, những chùm nho
ngon ngọt của việc làm tốt mà chúng ta phải thực hiện trong
cuộc sống hằng ngày. Nhưng, có thể thay vì dâng cho Ngài
những chùm nho ngon ngọt, thì chúng ta lại có những thái độ
thù nghịch chống lại Ngài, chống lại Thiên Chúa, chống lại
những sứ giả mà Ngài đã sai đến với chúng ta.
Vậy, thử hỏi còn điều gì có thể làm được cho con người
mà Thiên Chúa đã không làm để cứu rỗi, để hướng dẫn và
ban hơn nữa cho chúng ta hay không?
Chính Ngài đã sai Con Một Ngài đến cứu rỗi chúng ta,
và hy vọng con người sẽ không giết hại Con Ngài, nhưng sẽ
tắng nghe lởi Người: “Đây là Con Ta yêu dấu, các người hãy
vâng nghe lời Ngài”.
Thật thế những kẻ vô tâm, bất nhân bất nghĩa đã làm việc
bất nhân, thay vì dâng lời cảm lạ Thiên Chúa thì lại giết chết
Con Thiên Chúa, giết chết người ân nhân vĩ đại của cuộc đời
mình. Xin Chúa ban ơn biến đổi cho mỗi người chúng ta,
giúp chúng ta luôn biết tắng nghe liếng Chúa trong mọi hoàn
cảnh sống của cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ khẩn cầu Chúa ban cho mỗi người
chúng con được bắt chước gương sống của Mẹ: Khiêm tốn,
vâng phục, chấp nhận thưa “xin vâng” với Chúa trong mọi
nghịch cảnh của cuộc đời: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin
vâng như lời Ngài truyền”. Nhất là chúng con xin Mẹ giúp
cho mỗi người chúng con luôn luôn sống trong thái độ biết
ơn Thiên Chúa, cố gắng hết mình để làm vườn nho mà Ngài
đã trao phó cho mỗi người chúng con, để cây nho được trổ
sinh nhiều hoa trái tốt đẹp. Xin Thiên Chúa gìn giữ mỗi
người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng
nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
13. Được và mất
Chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” kể rằng: Một hôm, lừa
đang gặm cỏ, bỗng thấy Sói phi nước đại phóng tới. Lừa
giả bộ đi khập khiễng. Khi Sói đến gần, hỏi nó vì sao bị thọt
chân, thì Lừa trả lời:
- Vừa nãy tôi nhảy qua hàng rào bị xóc gai.
Rồi Lừa đề nghị Sói trước khi ăn thịt mình hãy nhổ gai ra
đã, để khỏi bị gai đâm.
Sói tin lời, Lừa giơ cao chân để Sói soi mói kỹ lưỡng các
móng chân Lừa. Lừa thừa cơ đạp mạnh vào mõm Sói rồi bỏ
chạy.
Sói bị gẫy hết răng ôm đầu kêu la.
- Đáng đời ta! Cha mẹ nuôi ta thành kẻ chuyên ăn thịt,
chứ đâu dạy ta làm thày lang!
Nếu chuyện ngụ ngôn nào cũng cho chúng ta một bài học,
thì chuyện ngụ ngôn “Lừa và Sói” muốn nói với chúng ta:
Kẻ nào không làm đúng công việc của mình sẽ lãnh hậu quả
bi thảm.
Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn “Những người thợ
làm vườn nho”. Mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên
Chúa giao phó cho một vườn nho, là những tài năng tinh
thần, của cải vật chất, để chúng ta đem hoa lợi về cho Người.
Thiên Chúa còn tôn trọng chúng ta, Người để cho chúng ta
hoàn toàn tự do sắp xếp công việc, theo sáng kiến riêng của
mỗi người. Thánh Matthêu viết: “Ông cho tá điền canh tác,
rồi trẩy đi xa”. Người không ở đó để kiểm soát, canh chừng.
Khốn thay, có những tá điền đã không làm đúng công
việc của mình, họ đã lạm dụng tự do chủ ban cho để tìm lợi
lộc riêng. Họ đã phụ lòng tín nhiệm của ông. Những tá điền
ấy đã ngược đãi và sát hại các đầy tớ mà chủ sai đến. Thậm
chí, đến lần thứ ba chúng giết luôn cả con trai ông. Họ làm
như thế là để chiếm lấy gia tài của chủ. Hậu quả là: “Ác giả
ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác
canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho
ông”.
Thiên Chúa ban muôn hồng ân, là để chúng ta phục vụ
Chúa và anh em, chứ không phải để chúng ta tìm tư lợi, danh
vọng, và khoái lạc cho bản thân.
Thiên Chúa kiên nhẫn trước những xúc phạm, lầm lỗi của
chúng ta, là để chúng ta có cơ hội hoán cải, chứ không phải
để chúng ta ngày càng sa lầy trong tội lỗi.
Thiên Chúa trao phó cho chúng ta các tài năng là để
chúng ta sinh lợi cho phần rỗi mình. Nếu chúng ta không biết
sử dụng ơn lành Chúa ban, thì Người sẽ cất đi và trao cho kẻ
khác. Nỗi bất hạnh ấy chỉ mình ta gánh chịu mà thôi!
Sẽ đến ngày chúng ta phải tường trình về công việc vườn
nho mà Chúa đã trao phó. Sẽ đến ngày chúng ta phải dâng
lên Chúa những thu hoạch hoa lợi mà Người trông đợi. Bội
thu hay mất trắng là hoàn toàn do công việc chúng ta đang
làm hôm nay. Đức Hồng Y Suhard đã nói: “Chúng ta chịu
trách nhiệm về những điều chúng ta đã làm, đã không làm,
hay đã cản trở không cho người khác làm”.
14. Tá điền vườn nho
Nhân cơ hội các thượng tế và các kỳ lão chất vấn Chúa
Giêsu về việc Người lấy quyền nào mà đánh đuổi những kẻ
buôn bán ra khỏi đền thờ, Chúa Giêsu đã dùng ba dụ ngôn để
nói với các ông như những lời cảnh giác về sự cứng lòng của
họ. Dụ ngôn tá điền gian ác là một trong ba dụ ngôn ấy.
Như đã nói ở trên, câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu kể trực
tiếp nhắm vào các thượng tế và kỳ lão. Họ là những người
được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăm sóc vườn nho là
dân riêng của Chúa. Nhưng thay vì mang hoa lợi về cho chủ
là Thiên Chúa, họ lại muốn chiếm đoạt hoa lợi ấy cho mình.
Vì thế, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến là các ngôn sứ
đều bị họ giết chết. Cuối cùng ngay cả Người con duy nhất
của Thiên Chúa là Đức Giêsu cũng bị họ đóng đinh và treo
Người trên cây thập giá. Họ nghĩ rằng chỉ khi làm như thế họ
mới chiếm đoạt được trọn quyền thừa kế và hưởng lợi lộc từ
vườn nho.
Ý nghĩa cụ thể của dụ ngôn là như thế. Nhưng chúng ta
cần nội tâm hóa câu chuyện để có thể lắng nghe được tiếng
gọi của Thiên Chúa dành cho chính mình chứ không phải chỉ
cho những người xa lạ ở vào những thời đại xa xưa.
Như ông chủ trao phó vườn nho cho các tá điền, Thiên
Chúa cũng tín nhiệm trao phó cho ta chăm sóc những vườn
nho của Người. Vườn nho ấy là chính cuộc đời của riêng
ta, là những cộng đoàn mà ta phải phục vụ, là những trách
nhiệm mà ta phải hoàn thành.
Như ông chủ vườn nho đã dựng hàng rào, đã xây tháp
canh để bảo vệ vườn nho, đã lắp đặt máy ép nho để giúp cho
công việc của tá điền được dễ dàng, nhờ đó họ có thể hoàn
thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Khi trao cho ta những
nhiệm vụ, Thiên Chúa cũng ban cho ta phương tiện là những
ân huệ cần thiết để chúng ta thực hiện tốt công việc được
trao.
Trao vườn nho rồi, ông chủ đi xa một thời gian. Ông tin
tưởng các tá điền sẽ làm cho vườn nho sinh hoa kết trái.
Thiên Chúa cũng tin tưởng ở chúng ta khi trao cho chúng ta
những trách nhiệm. Người không trực tiếp giám sát chúng ta
như những anh công an. Người cũng không phải là một ông
chủ chuyên chế áp đặt tự do và giết chết sáng kiến của chúng
ta. Người tôn trọng chúng ta như những người trưởng thành
và để chúng ta tự do làm việc. Người tin tưởng ở tinh thần
trách nhiệm của chúng ta.
Sau một thời gian vắng nhà, khi trở về, ông chủ sai các
đầy tớ đến thu hoa lợi của vườn nho. Sẽ tới ngày chúng ta
cũng phải tính sổ với Thiên Chúa về những công việc được
trao phó. Người hỏi chúng ta về hoa trái của những công việc
đã được trao. Người hỏi chúng ta về tinh thần trách nhiệm.
Những người tá điền đã giết chết các tôi tớ của ông chủ.
Hành vi này tượng trưng cho sự khước từ Thiên Chúa của
chúng ta. Có thể chúng ta đã từng loại trừ Thiên Chúa vì nghĩ
rằng Người là một ông chủ hà khắc, hay đòi hỏi, hay quấy
nhiễu con người.
Thay vì tiêu diệt các tá điền, ông chủ lại sai thêm các đầy
tớ khác. Điều này nói lên lòng nhân từ và sự kiên nhẫn của
Thiên Chúa. Người không trừng phạt chúng ta khi chúng
ta phản nghịch và chống lại Người, nhưng Người ban cho
ta nhiều cơ hội để sửa chữa những lỗi lầm và để trả lời cho
tiếng gọi của Người.
Không nhận ra được lòng nhân từ của ông chủ, những
người tá điền lại giết chết cả những anh đầy tớ này. Đó chính
là thái độ cố chấp sống trong tội lỗi của chúng ta. Tội lỗi
là sự bất tuân lệnh của Thiên Chúa, là cố ý chống lại Thiên
Chúa, cố ý đi ra khỏi con đường của Người.
Không ngã lòng, ông chủ còn sai con trai mình đến với
những người tá điền. Và họ cũng giết chết luôn cả anh con
trai này. Họ bàn bạc với nhau rằng: Phải giết anh con trai
thừa tự này đi để chúng ta chiếm lấy vườn nho. Thì ra tội lỗi
của những người tá điền không phải là không làm cho vườn
nho sinh hoa kết trái mà là muốn chiếm đoạt vườn nho của
ông chủ. Thiên Chúa đã dùng mọi phương cách để cứu vớt
con người. Người đã chơi ván bài chót là liều hy sinh chính
Con Một của Người để thức tỉnh con người. Nhưng con
người luôn muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời mình để có
thể sử dụng cuộc đời, để định đoạt mọi sự theo ý mình muốn.
Chúng ta làm việc này việc khác không phải vì quyền lợi của
Thiên Chúa mà chỉ vì ích lợi của bản thân mình. Chúng ta
muốn chiếm đoạt những gì thuộc về Thiên Chúa để làm của
riêng mình.
Chính trong ý nghĩa nói trên mà câu chuyện dụ ngôn cũng
là câu chuyện của đời thường và câu chuyện của ngày xưa
cũng là câu chuyện của ngày hôm nay. Hàng ngũ lãnh đạo
Do thái giáo ngày xưa đã loại trừ và đã giết chết Con Thiên
Chúa, Đấng đã đến trần gian để chỉ cho họ con đường về
Trời. Vụ án giết Con Thiên Chúa vẫn còn kéo dài qua mọi
thời cho tới ngày hôm nay. Và lý hình giết con Thiên Chúa
có thể là mỗi người chúng ta. Điều đó thật là đáng sợ.
15. Dụ ngôn những tá điền sát nhân - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Dụ ngôn trên ám chỉ những ai? Nó chỉ áp dụng cho dân
Do Thái và các nhà lãnh đạo Do Thái giáo thời đó, hay nó có
tính hiện sinh, nghĩa là có thể đúng với chính Ki-tô giáo của
chúng ta hiện nay?
2. Liệu Thiên Chúa có thể nói về Ki-tô giáo như đã nói
về Do Thái giáo: «Tôi những mong trái tốt, sao nó sinh nho
dại?». Và Ngài có thể nói về chính bản thân tôi như vậy
không?
3. Thiên Chúa có cần phải thay thế Ki-tô giáo bằng một
tôn giáo mới như Ngài đã phải thay thế Do Thái giáo bằng
Ki-tô giáo không?
Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa dụ ngôn những tá điền sát nhân
Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn có ý nói bóng gió
về tình trạng đã, đang và xảy ra trong dân Do Thái, mà trước
mắt có sự góp phần của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái là âm
mưu giết Đức Giê-su. Kết cục được diễn tả trong câu cuối
của bài Tin Mừng là: Dân Do Thái được Thiên Chúa dành
ưu tiên trong việc vào Nước Thiên Chúa, nhưng vì họ tỏ ra
không xứng đáng, nên chỗ ưu tiên của họ được nhường cho
những dân tộc khác.
Thiên Chúa đã yêu quí dân Do Thái, điều này được diễn
tả trong bài đọc I: Thiên Chúa cưng chiều dân Do Thái như
một người có một vườn nho mà anh ta rất quí: “Anh ra tay
cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh
xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a). Anh quí
nó đến nỗi làm cho nó tất cả những gì mà anh nghĩ nó cần
nó thích: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi
đã chẳng làm?” (5,4). Anh ta kỳ vọng rất nhiều vào vườn
nho đó, nhưng vườn nho đã làm anh thất vọng: “Anh những
mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại” (5,2b). Một vườn
nho như thế thì người chủ nên làm gì cho nó? Thất vọng vì
vườn nho ấy, anh ta đã “hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị
tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo (...)
biến thửa vườn thành mảnh đất hoang vu, không tỉa cành
nhổ cỏ, gai góc mọc um tùm; truyền lệnh cho mây đừng đổ
mưa tưới xuống” (5,5-6). Vườn nho đó được I-sai-a xác định:
“Vườn nho đó chính là nhà Ít-ra-en; cây nho Chúa mến yêu
quý chuộng, chính là người xứ Giu-đa. Người những mong
họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ
họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than”
(5,7).
Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su tiếp
tục khai triển chủ đề “vườn nho” của bài đọc I (Is 5,1-7), với
những ám chỉ sau đây: 1. Vườn nho ám chỉ dân Do Thái; 2.
Ông chủ đất: Thiên Chúa; 3. Bọn tá điền: Các lãnh tụ tôn
giáo Do Thái; 4. Các tôi tớ của chủ đất: Các ngôn sứ được
Thiên Chúa sai đến; 5. Người con trai của ông chủ: Đức Giê-
su; 6. Các tá điền khác: Dân ngoại.
Toàn bài dụ ngôn nói lên diễn tiến trong lịch sử dân Do
Thái: Thiên Chúa chọn Do Thái là dân riêng của Ngài giữa
mọi dân tộc. Ngài muốn họ là cầu nối giữa Ngài với mọi
dân tộc khác và với toàn nhân loại. Để thực hiện mục đích
ấy, Ngài đã sai các ngôn sứ đến để dạy dỗ, sửa đổi và cho
họ biết ý định của Ngài. Nhưng lời nói của những ngôn sứ
này thường không lọt lỗ tai các lãnh tụ tôn giáo Do Thái, vì
“trung ngôn nghịch nhĩ”, “lời thật mích lòng”. Và kết quả là
các ngôn sứ này đều bị ném đá chết dưới tay các lãnh tụ tôn
giáo Do Thái. Chính ngôn sứ Ê-li-a đã phải than phiền: “Khi
cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã tố cáo dân Ít-ra-en rằng:
Lạy Chúa, các ngôn sứ của Ngài, chúng đã giết chết; bàn thờ
của Ngài, chúng đã phá huỷ. Chỉ còn sót lại một mình con,
thế mà chúng cũng đang tìm hại mạng sống con” (Rm 11,3;
x. V 19,10.14).
Cuối cùng, Thiên Chúa sai chính Con Một của mình đến
cũng để làm công việc ngôn sứ ấy, thì cũng bị họ giết chết
một cách dã man và thảm hại. Dân Do Thái vì hèn nhát trước
quyền lực nên cũng hùa theo các lãnh tụ của họ. Vì thế, dân
Do Thái đã bị Thiên Chúa loại bỏ, mất quyền ưu tiên đối
với Nước Trời. Và Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập - gồm
những người tin theo Đức Giê-su - bao gồm những người mà
người Do Thái gọi là dân ngoại, gồm đủ mọi dân tộc trên thế
giới.
Còn dân Do Thái đã bị đào thải khỏi lịch sử: tháng 9 năm
70, Titus, lúc ấy làm thống soái quân đội Rôma (sau làm
hoàng đế năm 79-81), đã bao vây và chiếm Giê-ru-sa-lem,
giết rất nhiều người Do Thái. Kể từ đó, Do Thái bị mất nước,
và dân Do Thái phải tản mác khắp nơi trên thế giới. Đến thế
chiến thứ hai, dân Do Thái tại Đức đã bị Hitler giết tới 6 triệu
người. Mãi đến năm 1947, sau gần 19 thế kỷ bị mất nước, Do
Thái đã lập quốc trở lại tại vùng đất cũ, nhưng kể từ đó, họ
phải chiến tranh liên tục với dân Palestin và Ai Cập cho đến
nay.
2. Dụ ngôn đó có áp dụng cho Giáo Hội chúng ta
không?
Khi tôi học Cựu Ước, giáo sư dạy Kinh Thánh cho tôi
thường nói: “Israel là Giáo Hội, Israel là chính tôi”. Vì thế,
nếu bài dụ ngôn kia có thể áp dụng cho dân Do Thái, thì
cũng có thể áp dụng cho Giáo Hội và cho chính bản thân tôi.
Do Thái giáo là một tôn giáo do chính Thiên Chúa thiết
lập qua các tổ phụ, Mô-sê và các ngôn sứ, với hàng giáo
phẩm là các tư tế, lê-vi và các ráp-bi. Thiên Chúa đã trực
tiếp can thiệp vào lịch sử của dân tộc, đã ra tay giải phóng
dân tộc Do Thái khỏi ách thống trị Ai Cập, đã đích thân ban
hành luật pháp cho họ, đã trực tiếp chỉ định những vì vua cai
trị họ... Ngay cả Ki-tô giáo hiện nay cũng chưa được Thiên
Chúa trực tiếp can thiệp như thế. Có ngôn sứ nào trong Ki-
tô giáo oai hùng như I-sa-i-a, khi ra lệnh cho dân Do Thái
điều gì thì đều nói: “Thiên Chúa là Chúa các đạo binh phán
như thế” (x. Is 1,24; 3,15; 5,9; 10,24; 14,22-24; 17,3; 19,4;
v. v...) Vì thế, dân Do Thái đã rất có lý khi nghĩ rằng tôn
giáo của mình do Thiên Chúa thiết lập ắt sẽ vĩnh cửu, và sẽ
lan tràn khắp thế giới. Nhưng lịch sử cho chúng ta thấy họ
đã lầm. Do Thái giáo đã tàn lụi, và được thay thế bằng Ki-
tô giáo. Có thể nói, Do Thái giáo chính là tiền thân của Ki-tô
giáo.
Ki-tô giáo hiện nay cũng đang tự hào là tôn giáo duy nhất
do chính Thiên Chúa thiết lập, là tôn giáo có giá trị hơn hết
mọi tôn giáo trên thế giới, nên mọi Ki-tô hữu đều tin tưởng
nó sẽ tồn tại muôn đời, và sẽ lan tràn khắp thế giới. Nhưng
nhiều khi các Giáo Hội Ki-tô giáo chỉ biết tự hào như thế mà
quên đi niềm mong ước của chính Thiên Chúa đối với mình.
Liệu Thiên Chúa có phải than phiền về Ki-tô giáo như đã
than về Do Thái giáo: “Có gì làm hơn được cho vườn nho
của tôi, mà tôi đã chẳng làm? Tôi những mong trái tốt, sao
nó sinh nho dại?” Ki-tô giáo đã hơn Do Thái giáo những gì?
Đức Giê-su đến để thiết lập một tôn giáo mới dựa trên
nền tảng tình yêu thương, và luật của Ki-tô giáo là luật yêu
thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em
hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34); “Ai yêu người, thì
đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8.10); “Anh em hãy mang gánh
nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô”
(Gl 6,2); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu: Ngươi
phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2,8).
Luật của Tân Ước mới hẳn so với Cựu Ước của Do Thái
giáo, nhưng các Ki-tô hữu đã coi trọng luật ấy đủ chưa? đã
tập trung mọi cố gắng để thực hành luật ấy đúng mức chưa?
Hay Ki-tô giáo lại đi vào vết xe đã đổ của Do Thái giáo,
là thượng tôn nghi thức, quá chú trọng tới những lễ nghi
và hình thức bên ngoài? Còn lề luật chính yếu là sống yêu
thương thì lại lãng quên? Có phải hiện nay hình thức của Ki-
tô giáo thì mới mẻ và khác hơn Do Thái giáo, nhưng tinh
thần nệ luật, nệ hình thức thì chẳng khác gì những người Do
Thái ngày xưa? Đã tới lúc chúng ta cần nghiêm túc tự hỏi:
ngày nay, người ngoài nhìn vào cách sống của người Ki-tô
hữu, có thể nhận ra đạo của chúng ta là “đạo yêu thương”
như thời Ki-tô giáo sơ khai không? Ngày nay, lễ “bẻ bánh”
có còn là một dấu chỉ của một sự chia sẻ có thực trong đời
sống giữa những người đến tham dự không, hay nó đã trở
thành một nghi thức thuần túy, cho dù đầy ý nghĩa nhưng
không có gì là thực tế cho lắm?
Mỗi Ki-tô hữu - nhất là những người có trách nhiệm
hướng dẫn, lãnh đạo tôn giáo - cần tự vấn: Thiên Chúa hay
Đức Giê-su có hài lòng với tình trạng Ki-tô giáo hiện nay
không? Còn những người lãnh đạo tôn giáo cần tự vấn thêm:
Tôi có giống như những vị lãnh đạo Do Thái giáo xưa, chẳng
những không thèm nghe mà còn sẵn sàng bạc đãi hoặc bách
hại những tiếng nói ngôn sứ vào thời đại của mình không?
Hay ít ra khi họ bị bách hại vì đã chu toàn chức năng ngôn sứ
của họ, tôi đã im lặng, làm ngơ, để mặc họ bị bách hại như
thể tôi cũng đồng ý với sự bách hại ấy?
Không khéo Ki-tô giáo của chúng ta chẳng hơn gì Do
Thái giáo, khiến Thiên Chúa cũng sẽ phải đối xử với chúng
ta như đã đối xử với dân Do Thái: “Nước Thiên Chúa, Thiên
Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân
biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Ki-tô giáo hiện nay thế nào, chính con - cũng
như bất kỳ Ki-tô hữu nào - đều có phần nào trách nhiệm. Xin
cho con biết sống đạo Chúa Ki-tô đúng với với tinh thần yêu
thương của Ngài. Xin cho con rút ra được bài học lịch sử của
dân Do Thái để tránh được vết xe đã đổ.
* LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
1. Niềm vui cứu rỗi
Cái tin mà Chúa Giêsu đem xuống trần gian là một tin
mừng, cho nên đạo của chúng ta là đạo của niềm vui.
Thực vậy, đọc lại Kinh Thánh chúng ta nhận thấy trong
suốt dòng lịch sử, dân Do Thái luôn sống trong vui mừng và
hy vọng, chờ đón ngày Đấng Cứu Thế xuất hiện ngay giữa
lòng dân tộc và giải thoát họ. Trong cuộc hành trình tiến
về miền đất hứa, mỗi khi họ gặp phải khó khăn hoạn nạn,
thì Thiên Chúa hằng ở bên và nâng đỡ họ, để họ được sống
trong niềm vui mừng và hy vọng. Nội dung những lời rao
giảng của các tiên tri mà Thiên Chúa gởi đến với họ đều kêu
gọi họ hãy hân hoan vui mừng vì Chúa sẽ đến cứu độ họ: Vui
lên Sion này ánh sáng huy hoàng. Vinh danh Giavê đang tràn
lan khắp nơi. Vui ca lên nào thiếu nữ Sion, vì Đấng cứu độ
rất oai hùng, Ngài ngự trong nhà ngươi.
Theo quan niệm Do Thái thì cá nhân không phải chỉ là
một con người riêng biệt, mà còn là hiện thân của tổ tiên.
Những người quá cố vẫn đang sống và hiện diện qua hình hài
của con cháu họ. Do đó mỗi người đều liên kết khắng khít
với cha ông, với tổ tiên, với gia đình, với họ hàng và với cả
dân tộc mình. Vì thế, lời mời gọi người thiếu nữ Sion hãy vui
mừng cũng chính là lời mời gọi được gởi đến cho cả một tập
thể dân tộc Người Nữ sẽ sinh ra một Adong mới. Ngài sẽ đến
phá tan mọi xiềng xích tội lỗi.
Lời mời gọi ấy Thiên Chúa cũng muốn gởi đến cho cả
một dân tộc mới của Ngài, đến cho những người tin vào
tình yêu của Ngài. Kinh Kính mừng là lời chào hân hoan
mà thiên sứ Gabriel đã dành cho Mẹ Maria, cũng chính là
lời mời gọi cho toàn thể Giáo Hội cũng như cho mỗi người
chúng ta là hãy vui lên vì đã được Chúa cứu độ.
Kinh Kính mừng chính là lời chào mang lại Tin Mừng bởi
vì Tin Mừng đã được khởi đầu từ đó. Với hai tiếng xin vâng
đầy tin tưởng và phó thác, Mẹ đã cưu mang Chúa, Đấng
đem lại niềm vui cho nhân loại. Lời chào mừng của sứ thầy
Gabriel cũng được Thiên Chúa gởi đến với mỗi người chúng
ta.
Tuy nhiên điều quan trọng đó là thái độ đáp lại của chúng
ta. Liệu chúng ta có sẵn sàng xin vâng, có sẵn sàng mang
Đức Kitô trong tâm hồn và trong cuộc sống của mình hay
không? Liệu chúng ta có chấp nhận tình yêu của Thiên Chúa
hay không? Chấp nhận tình yêu của Chúa là chấp nhận đi
vào niềm vui ơn cứu độ. Chúng ta có biết rằng mỗi lần đọc
kinh Mân Côi là một lần chúng ta đi vào niềm vui của Mẹ,
niềm vui có Chúa ở cùng hay không?
2. Cùng Mẹ xin vâng – Lm. Anmai
Trong số các lễ nhớ Đức Maria, ngoài lễ Đức Mẹ Lộ
Đức và lễ Đức Bà Camêlô, còn có lễ Đức Mẹ Mân Côi, do
Đức Giáo Hoàng Gregorio XIII thành lập năm 1573. Nhưng
để biết nguồn gốc của lễ này trước hết phải tìm hiểu lịch
sử Kinh Mân Côi “Rosario”. Từ Rosario phát xuất từ chữ
Latinh “Rosarium” có nghĩa là vườn hồng, khóm hồng, tràng
hoa hồng, hoặc chuỗi hoa hồng, và cũng còn gọi là Kinh
Mân Côi.
Sở dĩ gọi là “chuỗi hoa hồng” hay “tràng hoa hồng” là vì
nó bao gồm nhiều hạt. Mỗi một hạt là một kinh Kính Mừng.
Khi đọc nó giống như một đóa hồng tín hữu dâng kính Mẹ
Thiên Chúa. Rồi nó cũng được gọi là Kinh Mân Côi, vì Mân
là tên của một loại ngọc, Côi là một thứ ngọc tốt, ngọc quí
lạ. Kinh Mân Côi là “Kinh Ngọc”, là “chuỗi ngọc Mân và
ngọc quí lạ”. Mỗi một kinh Kính Mừng dâng lên Đức Trinh
Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đầy ơn phước, Đấng Vô
Nhiễm Nguyên Tội, là ngọc Mân, ngọc đẹp quí lạ tín hữu
dâng lên Đức Trinh Nữ Maria.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi trước kia người ta ít lưu tâm đến,
nhưng từ khi Đức Mẹ ban ơn lạ lùng cho Đạo Binh Thánh
Giá chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Lépante vào năm 1571,
Đức Thánh Cha Piô V đã cho phổ biến lễ này một cách rộng
rãi trong Hội Thánh toàn cầu. Đức Thánh Cha Lêô XIII đã
giải thích tầm quan trọng của lễ Mân Côi trong rất nhiều
thông điệp Ngài ban bố. Đến nay, người Kitô hữu trên toàn
thế giới đã mừng lễ này cách rất sốt sắng và tôn kính đặc biệt
đối với lễ Mân Côi.
Mẹ Maria với hai tiếng xin vâng đã góp tay vào công
cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu và hiến thân trọn vẹn cho
Thiên Chúa.Thánh lễ Mân Côi cũng nối kết những biến cố
lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu: “Nhập Thể, Khổ Nạn và
Phục Sinh”.
Thư gửi giáo đoàn Galát, Thánh Phaolô gợi lại niềm tin
vào Đấng Cứu Độ trần gian như chúng ta nghe: “Nhưng khi
thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới,
sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để
chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được
ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên
Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng
anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi! “ Vậy anh em không
còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là
người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”. Thánh Phaolô khẳng định
lại ơn cứu độ đến tự nơi Chúa Giêsu để rồi những ai tin vào
Ngài thì không còn sống nô lệ cho tội lỗi nữa mà là được cứu
thoát.
Đấng Cứu Độ trần gian mà Thánh Phaolô nhắc đó cũng
đã được các ngôn sứ, người này người kia trong Cựu Ước
nói đến. Đặc biệt, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả cũng đã loan báo
nhưng rồi mấy ai đón nhận. Không ai đón nhận bởi vì họ
không tin Đấng Cứu Độ trần gian đến trần gian qua người
phụ nữ nhỏ bé. Họ nghĩ rằng Đấng Cứu Độ trần gian đó đến
trong uy quyền, đến trong vinh quang và sẽ làm cho dân tộc
của họ được vinh quang nhưng Chúa đến khác với suy nghĩ
của họ.
Trong niềm tin sâu thẳm của lòng mình, Mẹ Maria đã
đón nhận Đấng Cứu độ trần gian. Trang Tin Mừng quá quen
thuộc chúng ta nghe thánh Luca thuật lại lời xin vâng đón
nhận Đấng Cứu Độ trần gian vào trong đời mình. Mẹ tin và
hoàn toàn bỏ ngõ đời mình cho Thánh ý của Chúa.
Ngày hôm nay, lời xin vâng được mở ra, được bỏ ngõ với
biết bao nhiêu biến cố bi thương trong đời của Mẹ. Phải nói
rằng quá sức chịu đựng của một cô gái như Mẹ. Không còn
gì nhục nhã cho bằng khi phải đón nhận, khi phải đồng hành,
khi cùng với con chịu đau khổ trên hành trình thương khó và
bi thương nhất là cái chết trên thập giá.
Nhưng, niềm tin ấy của không dừng trên đỉnh đồi Canvê
mà còn tiếp tục sau khi chôn con yêu của mình. Sách Công
Vụ Tông Đồ cũng vừa kệ lại niềm tin của Mẹ khi các tông đồ
bấn loạn, người đi về nhà, kẻ chán nản vì Thầy của mình đã
chết. Không chỉ đơn thuần là Thầy mà là người mà cả cuộc
đời mình tín thác, mình trao phó, thậm chí bỏ cả vợ cả con,
cả gia đình để theo mà nay đã chết nên chẳng còn gì để mất
cả. Các môn đệ tán loạn nhưng may mắn Mẹ đã giữ vững
niềm tin ấy để quy tụ các môn đệ cùng quay trợ lại nơi các
ông trú ngụ để cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau giữ vững
niềm tin vào Đấng Cứu Độ trần gian.
Niềm tin đó chính Mẹ đã giữ, giữ từ ngày xin vâng lời sứ
thần cho đến khi Chúa Giêsu ra đi.
Tràng chuỗi Mân Côi mà ngày nay đoàn con cùng suy
niệm chính là cùng nhau suy niệm niềm tin của Mẹ vào cuộc
đời của Đấng Cứu Thế.
Mừng Mẹ Mân Côi là mừng niềm tin của Mẹ vào cuộc
đời của Đấng Cứu Thế.
Không phải mừng lễ Mẹ như là mừng một biến cố, ghi
dấu một kỷ niêm nhưng lại một lần nữa ta cùng nhau chiêm
ngưỡng niềm tin của Mẹ. Và, cũng không phải chỉ để chiêm
ngưỡng nhưng là để cùng nhau sống niềm tin vào Đấng Cứu
Độ trần gian như Mẹ đã sống.
Cách riêng, trong năm Đức Tin này, một lần nữa, cơ hội,
dịp để chúng ta soi chiếu niềm tin của chúng ta vào Đấng
Cứu Độ trần gian như thế nào? Dĩ nhiên, niềm tin ấy cũng
như cơn sóng xô của cuộc đời. Niềm tin ấy cũng có lúc mãnh
liệt, cũng có lúc cảm thấy mệt nhoài với những đau khổ
trong đời. Thế nhưng, nhìn đi nhìn lại, nhìn tới nhìn lui thì
những đau khổ mà ta phải chịu đó cũng chẳng thấm vào đâu
so với tất cả những nỗi đau của Mẹ Maria. Và, Mẹ Maria
cũng đau chưa bằng chính Chúa Giêsu con của Mẹ phải chấp
nhận đau khổ đến hiến mạng sống của mình để đem lại ơn
cứu độ cho con người. Chúa Giêsu, trong tất cả nỗi đau của
mình, Ngài đã vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu
chết và chết trên cây thập giá.
Ngày mỗi ngày, khi lần chuỗi Mân Côi, chúng ta cùng đi
với Mẹ Maria hành trình cuộc đời của Chúa Giêsu từ nhập
thể, nhập thế và chết trên cây thánh giá. Nhìn như vậy, chiêm
ngắm như vậy, suy niệm như vậy để cùng Mẹ dâng lên Chúa
mọi đau thương thử thách của cuộc đời.
Dĩ nhiên với bản tính mỏng dòn non yếu và phận người
tội lỗi, chúng ta khó có thể đi theo Chúa trên con đường thập
giá. Nhưng, khi cùng đồng hành với Mẹ, có Mẹ trong cuộc
đời, chúng ta sẽ cảm thấy thập giá đời của ta nó nhẹ nhàng và
thanh thản hơn.
Hãy cùng với Mẹ Maria và thưa với Chúa hai tiếng
xin vâng như Mẹ để tất cả mọi khổ đau của đời ta nên nhẹ
nhàng. Hãy cùng xin vâng như Mẹ để niềm tin của chúng
ta ngày mỗi ngày trao phó cuộc đời của chúng ta càng thêm
mạnh đủ để chúng ta bắt chước như Mẹ mở toang cuộc đời
của ta cho Chúa vào để Chúa hành động trong ta.
3. Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc”)
Trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên. Chúng
ta thấy, không có một tạo vật nào được Giáo hội dành nhiều
ưu ái cho bằng Mẹ Maria. Nói đến Mẹ, giáo hội luôn dành
cho Mẹ muôn vàn tước hiệu, tước hiệu nào cũng cao quí,
cũng đặc biệt. Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ Maria với
tước hiệu Mẹ Mân côi. Sở dĩ có ngày lễ hôm nay vì có liên
hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571,
vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ
biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh
Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo
dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Và đúng như lời
“xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức
Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời” đã ứng nghiệm, với
quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng
trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị
hùng hậu. Để ghi ơn Đức Mẹ, ĐGH Piô V đã thiết lập lễ kính
Đức Mẹ Mân Côi. Tuy nhiên, ngày nay Giáo hội không kêu
gọi chúng ta nhớ lại một biến cố xa xưa cho bằng mời gọi
chúng ta khám phá ra vị trí của Đức Maria trong mầu nhiệm
cứu rỗi và nhắc nhở về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời
sống của người tín hữu kitô chúng ta.
Thật vậy, khi chương trình sáng tạo đầu tiên của Thiên
Chúa bị tội lỗi con người làm cho đổ vỡ, thì nay Thiên Chúa
thay thế bằng một chương trình mới, khởi đi từ một cuộc gặp
gỡ và trao đổi giữa thần sứ Gabriel với cô thôn nữ Maria.
Như bao cô gái nhà quê khác, Maria cũng từng ấp ủ những
mộng ước, những dự phóng thật bình thường cho đời mình.
Nhưng Thiên Chúa đã xen vào, đã khuấy động đời cô và đã
làm thay đổi tất cả. Với lời thưa “Xin vâng” thật đơn sơ cô
đã trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, và trở nên người đầy ân
phúc. Đầy ân phúc không chỉ vì Chúa đã chọn Mẹ, nhưng
còn vì Mẹ đã luôn chọn đứng về phía Thiên Chúa, lấy Ý
Chúa làm ý của mình, luôn cố gắng để cho chương trình của
Ngài thành hiện thực. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những
thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con
người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban.
Nhờ đó, Mẹ trở nên như mẫu gương, như người hướng dẫn
và như sự nối kết những tâm hồn thành tâm kiếm tìm, lắng
nghe và thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa.
Do đó, mừng lễ Mân Côi hôm nay, mỗi người trong
chúng ta hướng nhìn lên Mẹ Maria, để noi theo Mẹ, chúng
ta biết lắng nghe và tuân hành thánh ý Chúa, để như Mẹ,
chúng ta vượt qua được những gian nan, thách đố, những lo
âu, khắc khoải của dòng đời, để sống tốt lành thánh thiện,
sống tươi vui và tử tế với nhau hơn. Muốn được như vậy,
giáo hội mời gọi chúng ta hãy đến với Mẹ, hãy siêng năng
lần chuỗi Mân Côi như là phương thế hữu hiệu để cải thiện
đời sống và xây dựng Nước trời. Vì lễ Mẹ Mân Côi không
còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là
mừng về một chiến thắng lớn lao hơn. Đó là chiến thắng của
ơn thánh trên tội lỗi, mà muốn có chiến thắng thì không thể
xao lãng việc lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân
Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Cho nên, ai yếu đuối,
Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi
dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh
tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp
khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám
tro tưởng như nguội lạnh. Ước gì mỗi người chúng ta hãy
thử một lần để nhận ra được giá trị của kinh Mân côi, để khi
gặp những khúc quanh, gánh nặng, khổ đau, những lúc mây
mù giăng kín cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu xin Mẹ:
“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con khi
nay và trong giờ lâm tử”. Amen.
4. Xin Vâng
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng "Xin
Vâng" của Đức Mẹ. Hai tiếng "Xin Vâng" thật đơn sơ nhỏ
bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.
Trước hết hai tiếng "Xin Vâng" có ảnh hưởng tới
chương trình của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người.
Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia,
đồng thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con người
được hạnh phúc. Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa
không thể ban hạnh phúc cho con người. Chương trình đầu
tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng
lời Chúa. Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa.
Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa.
Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên
chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Kế hoạch cứu
độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng "Xin Vâng" của
Đức Mẹ mà thành công.
Hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ vọng lại hai
tiếng "Xin Vâng" của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Vì vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã vui lòng xuống
thế làm người. Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng "Xin Vâng"
với thiên thần, Đức Giêsu cũng nói "Xin Vâng" với Đức
Chúa Cha. Với hai tiếng "Xin Vâng", Đức Mẹ khai thông
chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng "Xin
Vâng", Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng
Đức Mẹ.
Hai tiếng "Xin Vâng" có ảnh hưởng tới cả cuộc đời
Hai tiếng "Xin Vâng" nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, nhưng
ảnh hưởng tới cả cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ. Vì vâng
lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời
thánh vịnh: "Máu chiên bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn
thiêu, Chúa không nhận. Thì này Con đến để làm theo ý
Cha". Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã chấp nhận
con đường bé nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Đức Chúa
Cha, Đức Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây
thánh giá: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống
chén này. Nhưng xin đừng theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha
mà thôi".
Cũng vậy, khi nói tiếng "Xin Vâng" với thiên thần, Đức
Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình của Thiên
Chúa. Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo
nàn. Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai Cập. Vì xin vâng
mà chấp nhận lời tiên tri Simêon: "Một lưỡi gươm sẽ đâm
thấu tim bà". Vì xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các
nẻo đường truyền giáo. Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân
thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như
cùng chết với con vậy.
Như thế, để nói tiếng "Xin Vâng" với Thiên Chúa, Đức
Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói "không" với chính mình.
Để một lần nói "Xin Vâng với Thiên Chúa, Đức Giêsu
và Đức Mẹ phải nhiều lần nói "không" với chính mình.
Tiếng "Vâng" lớn thành hình nhờ những tiếng "không" nhỏ
bé. Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng. Chương trình
lớn thành công nhờ những hy sinh bé nhỏ âm thầm.
Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi
người chúng ta. Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất.
Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy không
thực hiện được. Để chương trình của Chúa được thực hiện,
ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng "Xin Vâng" với Chúa.
Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Hãy biết bỏ chương
trình riêng để đi vào chương trình của Chúa. Hãy xin vâng
khi vui. Hãy xin vâng khi buồn. Hãy xin vâng khi hạnh phúc.
Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng
trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới
chân thập giá đau buồn. Xin vâng từng giây phút trong cuộc
đời. Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được
hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh
ta.
Lạy Mẹ, xin dạy con hai tiếng “Xin Vâng” như Mẹ.
Amen.
5. Lá sầu riêng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao cả nhất. Nếu
không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm
được thế nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không
một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi nào. Tình mẹ là một tình yêu
vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất nhiều về
những hy sinh của mẹ như:
“Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”.
Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ cũng quặn đau vì con:
“Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi”.
Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện “Lá sầu riêng”
của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu chuyện
thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì
tương lai và hạnh phúc của con. Truyện kể về một người mẹ
nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với cảnh mẹ goá con
côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai
của đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu
có trong làng, và rồi bà tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm
sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng trôi qua, khi
bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh
giữa đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về
nguồn gốc của nó, và chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có
một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo cho con. Bà
nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai
mẹ con nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều
đó đã không xảy ra! Đứa con không chấp nhận sự thật ấy.
Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều
này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay
cho những giọt nước mắt sung sướng là những giọt nước
mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng nấc nghẹn
ngào: “Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo,
con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao
con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?”.
Tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì
sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người
Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng
tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ
vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ.
Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái
độ khước từ của con.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về
Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giê-su cũng là mẹ của chúng ta.
Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ.
Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ
nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao
bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giê-su. Từ nay
Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho
Chúa Giê-su con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời
chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái
đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi
là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu
quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình
mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: “Đêm mùa thu mẹ ru con
ngủ - Năm canh dài thức trọn năm canh”.
Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta?
Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao
mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm
ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc
cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng
tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng
đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở
đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng
kịch bản “lá sầu riêng” đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên
quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: “Con ơi!
Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con
đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần
thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ
để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và để
mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con”.
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình thương của
mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp
chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước
gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn
cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận
được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.
6. Kinh Mân Côi
Nguồn gốc kinh Mân Côi là những bông hồng kết thành
triều thiên, mà những tín hữu Bắc Âu thời Trung cổ đội lên
đầu Đức Mẹ, trong những tiếng đàn ca và múa hát. Tiếc thay,
ngày nay kinh Mân Côi đã trở thành một kinh đơn điệu nhàm
chán và máy móc, mà chỉ có ông già bà già cùng những
người đạo đức mới đọc, để ăn mày ân xá, còn giới trẻ và đặc
biệt là phía đàn ông con trai, chẳng cảm thấy vui vì khi lần
hạt.
Mặc dầu vậy, cứ đến tháng mười, các đấng các bậc trong
Hội Thánh cũng lại hết lời khuyên bổn đạo “Hãy ăn năn sám
hối và lần hạt Mân Côi”. Nhưng thực tế cho thấy ít có ai sám
hối thật lòng, còn lần hạt thì cũng luôn luôn chỉ có mấy cụ
già và người lớn tuổi. Ai không tin thì cứ thử làm một cuộc
điều tra.
Trong khi đó vào tháng năm, thì người ta lại rầm rộ thi
đua tổ chức Dâng Hoa. Rõ ràng là râu ông nọ cắm cằm bà
kia. Vì đáng lẽ cái thứ “phụng vụ dân gian” này phải được
kết hợp với kinh Mân Côi, thì mới đúng về nguồn gốc và ý
nghĩa của nó.
Thật vậy, người Kitô hữu Bắc Âu, sống vào koảng từ
thế kỷ XI tới XIII, vì không hiểu gì về phụng vụ bằng tiếng
Latinh, nên đã sáng tạo ra một thứ phụng vụ dân gian, là
sáng tác những bài ca bằng tiếng bản xứ, đôi khi rất lãng mạn
và trữ tình, đồng thời kết những triều thiên hoa hồng, vừa đội
lên đầu Đức Mẹ, vừa hát vừa múa.
Theo truyền thuyết thì có một anh lái buôn, vì phải đi
rong ruổi đó đây, không thể tham dự những buổi họp mừng
Đức Mẹ với anh chị em tín hữu, nên đã nghĩ ra cách đọc đi
đọc lại những câu kinh mà ban đầu chỉ có lời chào của sứ
thần Gabriel cộng với lời chúc mừng của bà Elisabeth.
Thánh Đaminh đã dùng cái nên tảng của lòng sùng kính
này để xây dựng nên truyền thống suy niệm những mầu
nhiệm cứu độ, bằng cách giảng dạy cho các tín hữu nghe biết
về những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu. Có thể nói, thánh
nhân đã biến đổi một hình thức sùng kính chỉ có tính cách
tình cảm trở thành một phương tiện loan báo Tin Mừng. Đối
với thánh nhân, điều quan trọng không phải là múa hát hay
đội triều thiên cho Đức Mẹ, mà là hái cho bằng được những
bông hoa của ơn cứu độ từ cây hồng ân sủng được trồng
trong vườn thiêng là cõi lòng Đức Trinh Nữ.
Chính nhờ nghe lời rao giảng mà người ta sám hối và tin
vào Phúc Âm. Sám hối phải được liên kết với việc tin vào
Phúc Âm, chứ không phải sám hối rồi chỉ đọc kinh. Đọc kinh
mà không biết, không hiểu Tin Mừng thì làm sao đạt được
niềm tin. Và không tin thì đọc kinh làm gì cho uổng công.
Bởi thế, cần phải bớt kinh, bớt việc làm của cái miệng,
để tăng thêm việc làm cho trái tim, cho cái tâm. Thật ra thì
sự suy niệm này đã được chính Đức Mẹ thực hiện và làm
gương cho chúng ta. Thánh Luca đã ghi lại những hai lần
thái độ của Đức Mẹ, đó là luôn để tâm suy niệm những biến
cố liên quan tới Chúa Giêsu, người Con của Mẹ. Vậy thì đối
với chúng ta, suy niệm những mầu nhiệm của Tin Mừng, đó
chính là cách hữu hiệu nhất để hái được những bông hồng
tươi thắm mà cài lên áo Mẹ hiền.
7. Kinh Mân Côi
Ngày 10.3.1615 tại Glascow, một vị thừa sai nổi tiếng, đó
là cha Ogilive bị hành quyết vì tội rao giảng Phúc Âm. Trong
giây phút cuối cùng đứng trên đoạn đầu đài, nhìn thấy hàng
ngàn người đến xem, ngài muốn để lại cho họ một kỷ niệm,
nên đã lấy cỗ tràng hạt của mình mà ném vào đám đông.
Xâu chuỗi rơi trúng một ông hoàng nước Hung Gia Lợi đang
trên đường du học và đã có một đời sống không mấy tốt đẹp.
Ông hoàng này đã thực sự xúc động khi nhận lấy xâu chuỗi,
và cũng nhờ xâu chuỗi, ông đã từ bỏ được nếp sống tội lỗi,
trở nên một người đạo đức và yêu mến kinh Mân Côi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nhớ lại những mệnh
lệnh của Mẹ tại Fatima. Đúng thế, vào năm 1917, Đức Mẹ
đã hiện ra tại Fatima với 3 em nhỏ. Và qua 3 em nhỏ Mẹ
đã truyền dạy chúng ta: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải
thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. Nếu suy
nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy mệnh lệnh thứ ba bao gồm
cả hai mệnh lệnh trên. Bởi vì nhờ việc siêng năng lần hạt,
chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến đối với Mẹ,
đồng thời nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta sẽ tìm thấy
những tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc cải thiện đời sống để
mỗi ngày một trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chính vì thế,
Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã gọi kinh Mân Côi là hơi thở
của mọi tâm hồn, là bông hồng thiêng liêng dâng kính Mẹ,
là việc đạo đức thích hợp cho mọi người ở mọi nơi và trong
mọi lúc.
Và riêng chúng ta, nếu ngay từ bây giờ chúng ta siêng
năng lần hạt, thì phần rỗi của chúng ta sẽ được bảo đảm chắc
chắn như lời Mẹ đã nói về cậu bé Phanxicô tại Fatima như
sau: Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt thật
nhiều trước đã.
Để kết thúc phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại một mẩu
chuyện: Có một người nhà quê không biết chữ xin vào tu
bậc trợ sĩ trong một nhà dòng. Được ít lâu, ông buồn phiền
chán nản vì thấy mình không biết đọc sách để được hát kinh
nhật tụng với mọi người. Ông cũng cố học nhưng vì đã có
tuổi, nên học trước quên sau, chẳng chữ nào ra chữ nào. Sau
một thời gian miệt mài, ông thấy rõ là mình bất lực nên bỏ
học và chuyên tâm lần hạt. Ông thường xuyên phàn nàn với
Đức Mẹ: “Vi không biết chữ, nên con chẳng ngợi khen Mẹ
được nhiều hơn. Con không biết đọc sách nguyện như các
thầy khác, thì Mẹ ráng chịu vậy”. Không chịu thua lòng đơn
sơ thành thật của ông, Đức Mẹ đã hiện ra sáng láng đẹp đẽ
với một chiếc áo choàng lộng lẫy, nhưng mới thêu được một
nửa bằng những chữ vàng óng ánh: Kính mừng Maria... Ông
đơn sơ hỏi: “Sao Mẹ mặc áo đẹp mà lại thêu dở dang như
vậy?” Mẹ trả lời: “Đây là những kinh Kính Mừng con đọc
hằng ngày để dâng kính Mẹ. Vì con mới đọc được có bằng
ấy kinh, nên áo Mẹ còn dang dở như thế. Vậy con hãy cố đọc
nhiều hơn nữa để chóng thêu xong tấm áo cho Mẹ. Khi nào
xong, Mẹ sẽ đến để choàng cho con và dẫn con vào Nước
Trời”. Nói xong Mẹ biến đi, để thầy dòng không biết chữ ở
lại ngây ngất với những kinh Kính Mừng đã đọc.
Từ đó, chúng ta hãy thực hiện lệnh truyền của Mẹ bằng
cách siêng năng lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, để dâng lên
cho Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, xin Mẹ sẽ nâng đở và
phù trợ chúng ta luôn mãi.
8. Hiệu quả của Kinh Mân Côi
Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi xin trình bày về
những ơn lành mà chuỗi Mân côi đã đem đến cho nhân loại.
Trường hợp thứ nhất đó là vào thế kỷ 13, bè rối
Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp, thế nhưng với
chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời
gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người
theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
Trường hợp thứ hai đó là vào thế kỷ 16 ảnh hưởng
của Tin lành trở nên mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu.
Nhưng dân thành Luxembourg vẫn nhất quyết trung thành
với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ
để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, thì
một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt
to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng
và ra khỏi nhà thờ. Và như thế nhờ kinh Mân côi dân thành
Luxembourg giữ vững niềm tin và sự trung thành với Giáo
Hội.
Trường hợp thứ ba đó là vào thế kỷ 16, quân Thổ Nhĩ
Kỳ đe dọa và xâm chiếm Âu Châu, nhưng nhờ kinh Mân côi,
đoàn chiến binh Công giáo, tuy ô hợp, nhưng cũng đã dành
được chiến thắng tại Lépante. Chính vì thế, để tạ ơn Đức Mẹ
và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô
5 đã thiết lập lễ Mân côi hôm nay.
Trường hợp thứ tư, đó là vào thế kỷ 20. Trước năm
1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách
trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè
phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo
Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ
bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta
tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể
từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha
đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức
những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi, để xin Mẹ chấm
dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước.
Và Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của
kinh Mân côi.
Cũng từ đó những sự đổi mới đã xảy ra. Tinh thần đạo
đức thấm nhiễm vào các tổ chức xã hội. Ơn kêu gọi gia tăng,
các tạp chí Công giáo phát triển và Giáo Hội bừng sống sau
một thế kỷ tàn lụi. Chính các Đức giám mục Bồ Đào Nha,
trong một bức thư chung đã xác quyết: Sở dĩ Bồ Đào Nha
đã thay đổi tốt đẹp là do những lần Mẹ hiện ra tại Fatima và
kinh Mân côi.
Nhìn vào hiện tại chúng ta thấy thế giới cũng đang trải
qua những biến động và xáo trộn về kinh tế, chính trị và nhất
là về tôn giáo. Mặc dù không có những cuộc bách hại gay
gắt, mặc dù không có ảnh hưởng của các bè rối, nhưng có
một đe dọa khác tệ hại hơn, đó là những học thuyết, những
trào lưu tư tưởng, những thể chế chính trị chối bỏ Thiên
Chúa, đả phá tôn giáo mỗi ngày một bành trướng, khiến
cho một số người không nhỏ xa lìa đức tin. Để nhân loại
được hòa bình, để thế giới được an vui, để Giáo Hội được
phát triển, chúng ta không có một phương pháp nào hơn là
phương pháp mà Mẹ đã truyền dạy, đó là hãy siêng năng
chăm chỉ lần hạt Mân côi.
9. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
MARIA, NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ
Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng
hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Với hai tiếng “Xin
Vâng”, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi. Từ nay Mẹ
không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên
Chúa. Mẹ kết hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng và
thực hành bí tích Thánh Thể.
Thật vậy, với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ là gương mẫu
trong việc đón nhận Thánh Thể. Khi đón nhận Ngôi Hai
Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của
bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là
Thiên Chúa. Như thế, Mẹ khuyên dạy ta khi đón nhận Mình
Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của
Chúa Giêsu.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà
chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể.
Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh
khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc
luôn ghi nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ
luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành một
người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên dạy ta
hãy năng chầu Mình Thánh Chúa.
Sau khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ vội và lên đường đi viếng
bà thánh Elizabeth. Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể
đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không
đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại
lợi ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan
Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy
niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng
sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.
Nhưng cũng với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ luôn hướng
về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong bào thai cho đến khi sinh ra
trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động
công khai. Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ
Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu
là lẽ sống. Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa. Với lòng
tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến
khao khát Chúa. Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống
của ta.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, không những Mẹ vâng lời
Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng
lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân:
“Người bảo gì các con hãy cứ làm theo” (Ga 2,5). Thái độ
hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép
lạ “nước lã hóa thành rượu ngon”. Hôm nay Mẹ cũng nhắc
nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà
nhớ đến Thày” (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng
tham dự thánh lễ, chầu MTC, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm
phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu
ngon.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ hoàn toàn kết hiệp với
Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới
chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng
hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm
của lễ đền tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm
Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại. Như
Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh
bẻ ra ban cho nhân loại sự sống mới. Như thế Mẹ dạy ta phải
biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để
nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc kết hiệp với Chúa
Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh
phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Và với hai tiếng “Xin Vâng”, một lần cuối cùng Mẹ vâng
lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận thánh Gioan là
nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm
Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả
nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng
bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời.
Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương
đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn
một bánh, cùng uống một chén với nhau. Và tất cả chúng ta
đều là các chi thể trong thân thể của Chúa. Tuy năm Thánh
Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là
việc sống bí tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong
tháng Mân Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu
mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu
mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô
đệ nhị đã gọi Mẹ là “Người Nữ Thánh Thể”. Nếu chúng ta
siêng năng lần hạt Mân Côi, chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng
dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu
nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu. Và
mầu nhiệm 5 Sự Sáng đưa ta trực tiếp tới bí tích Thánh Thể.
Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể. Vì như Đức Mẹ
đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm
nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho
chúng ta như vậy.
Lạy Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu
Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Lời “Xin Vâng” của Đức Mẹ biểu lộ niềm tin. Bạn có
giữ vững được niềm tin trong những lúc gặp thử thách để
thưa “Xin Vâng” với Chúa trong đau khổ không?.
2) Gia nhân đã vâng lời Đức Mẹ “Người bảo gì các anh
cứ việc làm theo” nên đã múc nước lã mà không hiểu gì. Bạn
có sẵn sàng vâng lời Chúa làm những việc mà bạn không
hiểu?
3) Khi hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ đã mời gọi ta thực hiện
3 điều. Bạn có sẵn sàng “Xin Vâng” để thực hiện không?
10. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm
tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các
nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ,
hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian.
Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm
nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng
đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và
mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho
tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình
đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi,
dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn
nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn
đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ
chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên
Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một
làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm
xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô.
Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt
cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông
gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin
vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như
Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương
lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ
chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương
trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn
phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức
Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức
Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích
cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không
những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa.
Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến
chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc
Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi
đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu
trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu,
không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số
phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn
sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ
ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi
cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong
tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị
người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của
Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà
phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao
đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên
Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa
Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con,
nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính
mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm
đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria
rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức
Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên
Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để
thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba
ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau
đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói:
“Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc
cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền
không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và
mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu
không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết
thống:
“Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em
và là Mẹ ta”.
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc
chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói
và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những
tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước
vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây
liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến
cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn
hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con
chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng
nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã
truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria
cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình.
Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến
hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa
Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi
đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi
Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất
tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới
chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất.
Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để
bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương
trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết
nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để
trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình
đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng
cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng
trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng
Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua
hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức
tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ
ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can
đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó
thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì
Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ
mình, điều nào quan trọng hơn?
11. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi
ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển
bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ
chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ
của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như
không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:
- Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những
chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già điềm nhiên trả lời?
- Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin
những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi.
Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy
học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì
ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.
Cụ gia bình tĩnh hỏi người sinh viên:
- Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu
có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển
sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho
người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên
bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì
trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên
cứu khoa học Paris”.
Anh chị em thân mến,
Louis Pasteur là một nhà bác học thời danh của viện
nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên cứu khoa học
của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với
tràng chuỗi Mân Côi. Ngược lại, con người sống trong thời
đại khoa học kỹ thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng,
đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời, giải đáp
những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc
cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ
thể cho cuộc sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu không cho là
chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.
Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì
hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn
nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với
niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu
hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là
công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có
người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng
đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!
Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi.
Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị
Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn “Lòng
sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng
Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một
kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược
Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng
ấy không nơi nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan
phấn khởi cho bằng lời kinh “Ave Maria” mà chúng ta đọc
là “Kính Mừng Maria” thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp
có nghĩa là “Hãy vui lên, Maria!” khi thiên sứ loan báo Tin
Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong
hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi người thiếu nữ Sion
mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn
để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài
ơn cứu độ được hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên
mới: “Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc” là tên mới của Đức
Mẹ. Đọc lên lời kinh “Kính mừng Maria” là reo lên niềm vui
ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi
đi từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy
tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.
Nội dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng,
cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi
là bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố
chính yếu nhất: “Từ khi thụ thai và những mầu nhiệm của
thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua
cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và cho
đến hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần
cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc cuộc hành
trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên
quốc” (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là
bản tóm lược Tin Mừng.
Anh chị em thân mến,
Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng
Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta
được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những
biến cố của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình
khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín thác...
Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về
với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương
Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ,
trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình... được
công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh
Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của
Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối
đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria
và qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị
của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng mình
là môn đệ Đức Kitô không thể không biết đến và lấy làm lẽ
sống cho đời mình.
Nói rằng chuỗi Mân Côi là kinh Tin Mừng, ngay lập tức
chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách
máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn
giản và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó.
Chính Chúa Giêsu đã nói: “Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ
lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được
nhận lời” (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi
với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức
Maria: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại
trong lòng” (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe Lời Chúa,
suy niệm và thi hành.
Thưa anh chị em,
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc
hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại
những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua
những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá
nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng.
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời
đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả
thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn
thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy can
đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp
nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ
với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi
đích thực khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo
đường của Thiên Chúa.
12. Tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời
(Suy niệm của Lm. Vinh Sơn Trần Minh Hòa)
1. Vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Các cụ ngày xưa hay dạy con cháu trong việc giữ đạo
rằng: tràng hạt Mân Côi đưa tôi về trời. Ở đây, các cụ không
ngụ nói việc đeo hay trưng bày tràng chuỗi Mân Côi nhưng
là việc cầu nguyện bình dân bằng Mân Côi trong đời sống
người kitô hữu. Tại sao việc lần chuỗi Mân Côi mang đến
một hiệu quả cao siêu như vậy? Trước hết, chúng ta cùng tìm
hiểu vai trò của Đức Mẹ trong chương trình cứu độ.
Thật vậy, các bài đọc phụng vụ hôm nay cho thấy, Đức
Mẹ có vai trò đặc biệt trong chương trình cứu độ. Bài sách
công vụ cho biết Mẹ Maria có chỗ đứng quan trọng trong
Hội Thánh sơ khai. Mẹ là thành phần của Hội thánh nhưng
là thành phần trổi vượt. Sau biến cố Chúa tử nạn, phục sinh
và lên trời của Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã giúp Hội thánh khỏi
những khó khăn ban đầu qua hành vi chuyên cần cầu nguyện
chung với các tông đồ (x. Cv 1,14). Mẹ Maria đã trở nên
mẫu gương cầu nguyện cho mọi người noi theo.
Tiếp đến, thư Galát đã gián tiếp nhắc đến vai trò của Đức
Maria trong chương trình cứu độ. Thiên Chúa muốn cứu độ
con người nhưng lại chấp nhận một phương thế rất khiêm hạ.
Đó là chấp nhận cho Con mình là Chúa Giêsu sinh làm con
một người trinh nữ, là Đức trinh nữ Maria. Chúa Giêsu đã
đến để chuộc những ai sống dưới lề luật, để mỗi người được
làm con Chúa. Nhờ Mẹ Maria chấp nhận làm mẹ Chúa Giêsu
mà mọi người có cơ hội được làm con Thiên Chúa và có thể
kêu lên với Chúa là Apba có nghĩa là Cha ơi.
Cuối cùng, bài Tin Mừng theo thánh Luca đã trình
thuật biến cố truyền Tin. Đức Maria được Thiên thần Gariel
chào chúc là Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Mẹ
Maria được chào chúc như vậy bởi vì Mẹ đã và đang sống
đẹp lòng Chúa, đang sống theo ý Chúa và nhất là Mẹ đã
được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Chúa Giêsu, ngôi
lời Thiên Chúa nhập thể. Mẹ càng đẹp lòng Thiên Chúa hơn
nữa khi Mẹ thưa lời xin vâng với sứ thần: “Tôi đây là nữ tỳ
của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc
1,38). Chính giây phút thưa lời xin vâng, Mẹ Maria đã trở
thành Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể.
Thưa lời xin vâng, Mẹ đã chấp nhận liên đới mật thiết với
Chúa Giêsu khi thành công cũng như chuỗi ngày thất bại,
khi chia vui với thực khách ở tiệc cưới Cana cũng như lúc sẻ
buồn với Chúa Giêsu và Hội thánh ở trên núi sọ. Mẹ cũng
liên đới mật thiết với Hội thánh vì khi nhận lời trăng trối của
Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ đã nhận thánh Gioan, đại diện
cho toàn thể Hội thánh là con của mẹ. Nhờ thế, Mẹ đã hiệp
công cứu chuộc với Chúa Giêsu con Mẹ trong chương trình
cứu độ. Mẹ có sức chuyển cầu hiệu quả cho những ai cậy
trông vào Mẹ, cách riêng cho những ai chuyên chăm lần
chuỗi Mân Côi.
2. Tràng chuỗi Mân Côi đưa tôi về trời.
Lần chuỗi Mân Côi là việc đạo đức bình dân không xếp
trên thánh lễ, các bí tích và giờ kinh phụng vụ vì các việc
trên là phụng vụ và là việc tôn thờ chính thức của Hội thánh.
Tuy nhiên, việc lần chuỗi Mân Côi lại có một hiệu quả đặc
biệt cho ơn cứu độ của mỗi người. Tại sao như vậy? Trước
hết, Đức Maria có thế giá đặc biệt khi chuyển cầu cho con
cái mình và kinh Mân Côi là lời Kinh được chính Đức Mẹ tỏ
bày cho con cái mình. Vào thế kỷ 12, thánh Đaminh đã được
Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một
thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc
giáo Anbidoa Miền Nam nước Pháp. Nhờ phép lần hạt Mân
Côi mà Hội Thánh Dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V đã
tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi giáo tại vịnh
Lêpăng vào đầu thế kỷ 16. Vào đầu thế kỷ 20, trong biến cố
ở Fatima, Mẹ Maria đã khuyên dạy con cái mình siêng năng
lần hạt Mân Côi để thế giới được hòa bình, mọi người được
bình an.
Kế đến, lời kinh Mân Côi là bảng tóm Phúc Âm. Đây là
kinh nguyện đầy nét Thánh Kinh được tập trung vào mầu
nhiệm Nhập Thể cứu chuộc, chuỗi Mân Côi hướng rõ ràng
về Đức Kitô. Thật vậy, kinh kính mừng là lời ca tụng Đức
Kitô không ngừng: Kính chào bà đầy ơn phúc và con lòng
bà gồm phúc lạ. Kinh lạy cha là kinh chính Chúa Giêsu dạy
để các tông đồ và người tín hữu biết cầu nguyện. Các ngắm
vui, thương mừng, sáng diễn tả cô đọng mầu nhiệm của Chúa
Giêsu từ khi sinh ra cho tới khi hoàn tất chương trình cứu
độ và các ý nguyện giúp người đọc sống theo gương Chúa
Giêsu. Kinh sáng danh là lời vinh tụng ca tuyên xưng một
Chúa Ba Ngôi cả sáng: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức
Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, kinh Mân Côi là kinh dễ thực hành cho mọi
tín hữu trong mọi hoàn cảnh phù hợp cho một em bé cũng
như cho cả Đức Giáo Hoàng. Đức chân phước Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã chia sẻ kinh nghiệm của Ngài trong
việc thực hành kinh Mân Côi được trích trong tông huấn
Rosarium Virginis Mariae như sau: “Chuỗi Mân Côi là lời
kinh tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt diệu trong đơn
sơ và trong sâu thẳm của nó ...Đã bao nhiêu năm qua, tôi
đã lãnh nhận không biết bao nhiêu ân sủng từ Đức Trinh Nữ
nhờ kinh Mân Côi”.
Ước mong mỗi khi chúng ta tin nhận thế giá bầu cử của
Mẹ trong chương trình cứu độ. Chúng ta năng chạy đến Mẹ
qua lần chuỗi hằng ngày, để chính Mẹ giúp mỗi người ngày
càng gắn bó và yêu mến Chúa Giêsu hơn.
13. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu
(Trích trong ‘Từng Bước Một Thôi’ – ĐGM. Giuse Vũ
Duy Thống)
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên
trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan
Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và
giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời
kinh diệu kỳ”.
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh
Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa
ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín:
Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức,
đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh
dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là
sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và
trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người,
phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh
nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong
tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng
lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống
cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ
thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt
sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ
ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng
thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng.
Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu
tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào
của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet
làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng
từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng
là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là
Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên
chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu
nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria
trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa
Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là
ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam,
thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình
mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là
Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương
thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho
cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì
thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi
nơi.
2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ,
nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa
Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương
Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong
Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn
Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được
nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra
làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa
Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên
Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để
hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều
cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương
giúp người..., nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách
của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích
nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng
Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được
cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và
theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong
lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm
suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức
tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi.
Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng
hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi
Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ
được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên
Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người
vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong
nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã
không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn
mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những
lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh
nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé
cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài
bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức
Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu
nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma
quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên
thánh, mến Chúa, yêu người”.
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại
thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là
một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện
đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng
Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng.
Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để
theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng
người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần
cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà
cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí
ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà
“tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người
giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược
ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi
chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo
tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã
hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện
thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua
Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi
trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc
ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm
đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới
tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và
cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người
được nỗ lực sống thánh đức hơn.
14. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38)
(Trích trong ‘Nút Vòng Xoay’ - ĐGM. Giuse Vũ duy
Thống)
Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của
một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng
lúc gia đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa
gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi chiếc áo mới màu xanh
nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt kiều
Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến
thoắng đố tôi hôm nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt
nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có gì khác nên đành chịu.
Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên đã
nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay
mỗi người mặc một màu áo: bố màu trắng người Châu Âu,
mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ người Châu Mỹ,
còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm
châu, là thế giới.
Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh bạn tôi đã phải
giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm
một chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người
mỗi ngày đọc một chục, năm người thành năm chục, năm
chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục
Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là
sáng kiến của con út nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi
người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui ấy, tôi miên man suy
nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.
1) Kết nối với Đức Maria.
Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên thần Gabriel
chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà
Êlisabet trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã
trở thành lời chào mừng chính thức cho sự kết nối giữa con
người với Đức Maria.
Sự kết nối ấy là kết nối với một cá nhân khi đối diện với
mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ,
nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa.
Đó là một dung hòa tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của
Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của con người, nghĩa là
nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc
Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi
có sự đáp trả cộng tác bằng lời “xin vâng” thì ơn phúc kia
mới lộ hiện.
Nhưng “xin vâng” không chỉ bằng lời mà là bằng cả một
đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp
nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành
trình đức tin bên cạnh Chúa Giêsu.
Sự kết nối ấy là một sự “nối mạng”, nghĩa là kết nối vào
một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện tại không
những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao
giờ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh
Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông gắn bó nảy sinh, rất
linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức
Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức
Maria, rất tự nhiên như tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn
nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.
2) Kết nối với Chúa Giêsu.
Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi là kết nối với
Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì
hành trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới
đích điểm là kết nối với Chúa Giêsu.
Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là nếu có ai hỏi ta Đức
Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức Maria
cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần
hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ
lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối
với Chúa Giêsu nữa.
Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng muốn nói lên
điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria
và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc
bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời
ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con
lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối
kết với Con của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với
Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua
những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như
cách gọi truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức
Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Thương
trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội
cho cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức
Giêsu bước vào vinh quang mở ra tương lai cho mọi sinh
linh.
Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu nó, kết
nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết
nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.
3) Kết nối với mọi người trong Chúa Kitô nhờ lời
chuyển cầu của Mẹ Maria.
Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai mối kết nối nói
trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức
Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau,
nhưng chính ở đây lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin
tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần hạt Mân Côi.
Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết người Ấn Độ là anh
em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người
Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận
hơn nữa người Thượng gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt
ở nhà thờ, gia đình, trên đường......? Tại sao ai cũng lần hạt
được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ em
thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ
cập, chẳng những phù hợp với mọi người mà còn củng cố
hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người ta đều lần hạt,
đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì
lần hạt xin hạnh phúc đời sau.
Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí thì vũ khí ấy
lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp
thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp
Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu
chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công Giáo,
nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi
người hiệp thông trong Kinh Mân Côi.
Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối không có
tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn
của Đức Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong
mối hiệp thông. Để với những ai đã quen lần hạt hằng ngày,
xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh cho
tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh
Mân Côi còn là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành
luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và cô gái, thấy
họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và
nói với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười
vui. Mong rằng không chỉ có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn
nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp thông nối kết với
nhau và cầu nguyện cho nhau.
15. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng
(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ của ĐGM. Giuse Vũ
Duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm
1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất
nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình
chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời.
Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương
yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh
lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công
Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm
danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa
vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng
vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không
phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều
hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức
Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân
Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên sứ truyền tin
ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như
muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương
chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm
người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở phần
chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một
thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối
với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.
“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn
đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên
Chúa. “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần,
mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân
mình để đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ
không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời,
một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho
dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của
ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều
Tử Nạn. “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm
nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh
quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm
Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức
Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến
thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên
chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường
của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria
đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn
phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng
chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình
ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là
kẻ có tội”. Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện
xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm
tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ
Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa
Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng
trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong
thánh đức. Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa
Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo
Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc
Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không
đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà
ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ.
Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang,
tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa
phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ
Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng
trông cậy.
Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một
tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh
đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ
vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu
tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh
Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không
ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và
cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng
trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh
thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân
Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi
vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức
Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về
vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến
thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng
còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria
và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến
thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng
khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi
người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ
mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu
nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và
vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu,
phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến
thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định
mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi –
Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng
không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt
Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là
một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả
tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai
tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân
Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan,
Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn
ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì
một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến
Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp
nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là
của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ
u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng
đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”,
đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh
chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ.
Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại
rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ,
thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.
16. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuđa cảm
thấy chán nản thất vọng đến độ không còn tin tưởng vào tình
thương tha thứ của Chúa nữa. Ông cầm lấy 30 đồng bạc là
giá bán Chúa đi vào đền thờ và nám trả lại cho các Thượng
tế và Kỳ lão. Sau đó ông đi thắt cổ tự tử. Câu chuyện này đã
đi vào lịch sử của dân làng Oberammergau ở Đức. Cứ 10
năm một lần theo lời thề của cha ông để lại từ mấy trăm năm
qua, người dân làng diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.
Trong cảnh Giuđa ra ngoài ngồi than thở: “Tôi đã phản bội
Thầy tôi. Tôi không biết chạy đến với ai nữa!”
Khán giả ở dưới im lặng theo dõi, một em bé ngồi bên
cạnh mẹ, thông cảm cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất
vọng, em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy.
Em quay sang mẹ và nói lớn đến nỗi tất cả khán giả trong
hội trường đều nghe thấy:
“Mẹ ơi, sao ông ta không chịu chạy đến với Mẹ Maria?”.
Thưa anh chị em,
Phải chi Giuđa mà biết chạy đến với Mẹ Maria, hẳn là
ông đã không thắt cổ tự tử. Hãy nhờ Mẹ Maria mà đến với
Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng có một người mẹ như mọi
người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi
người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối mẹ, những
lần sà vào lòng mẹ, hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của
Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm bản thân ấy đã trở nên
bài học mà Ngài muốn nhắn gởi chúng ta: “Hãy chạy đến với
Mẹ Maria”.
Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp chúng ta
chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ
các gia đình Công giáo: “Khi gia đình không được an vui
hòa thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an
vui hòa thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách
nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân Côi, để
xin Mẹ cảm hóa bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau,
hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông...”.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ
sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện
diện tại quãng trường Thánh Phêrô khi đọc Kinh Truyền Tin
rằng: “Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích
nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và
sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời
Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ
Êlizabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với
những lời kinh ấy. Người ta có thể nói rằng: Kinh Mân Côi
là kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về
Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vatican II,
chương bàn đến sự hiện diện tuyệt vời của Đức Mẹ trong
mầu nhiệm Chúa Kitô diễn ra trước mắt chúng ta. Những
biến cố ấy bao gồm toàn bộ các mầu nhiệm Vui, Thương,
Mừng và chúng ta hiệp thông sống động với Chúa kitô nhờ
Mẹ Maria. Đồng thời, chúng ta có thể đưa kinh Mân Côi vào
tất cả những biến cố trong cuộc sống hằng ngày của từng cá
nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân loại,
những biến cố của chính bản thân của anh chị em chung
quanh, nhất là với người thân yêu sống gần gũi với chúng ta.
Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ rập theo nhịp sống của
con người” (Gioan Phaolô II, 29.10.1978).
Trong Tông Huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis
Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: “Kinh Mân Côi là
kinh Tin Mừng”. Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời kinh
Lạy Cha, Kính Mừng được chấp nối bằng những lời lẽ trong
Thánh Kinh, nhưng nhất là vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào
nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Vì thế, đối tượng cốt yếu của chuỗi Mân Côi không phải
là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu Chúa Giêsu, trải
dài từ tiếng khóc Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui
phục sinh, đến ân huệ Thánh Thần. Cùng với cuộc sống ấy
là những giá trị căn bản của Tin Mừng được xác quyết: yêu
thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ... những giá trị
“nên xác thịt” nơi con người Chúa Giêsu và là tiếng mời gọi
được gởi tới cho tất cả mọi người.
Trên nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự hiện diện của Đức
Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và cũng là người môn
đệ ấy đã thông điệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ
trong suốt cuộc đời: từ khi sinh ra đến khi chứng kiến cái
chết trên thập giá, sống lại và lên trời. Chuỗi Mân Côi đưa
người tín hữu vào suy niệm về những đoạn đường Chúa đã đi
qua với sự hiện diện của Mẹ Maria trong những đoạn đường
ấy.
Như thế, thưa anh chị em,
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria và qua Mẹ
Maria, chúng ta thêm một lần xác tín và xác tín lại hằng ngày
những giá trị của Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria nhìn lại
những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ và qua
những biến cố ấy, chúng ta nhìn lại những biến cố hôm nay
của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin
Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria đi tìm một
lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp
trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn
thân trong những lựa chọn can đảm, trong hành động cụ thể
như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Chính như thế đó, Thánh Đaminh đã biến chuỗi Mân Côi
thành phương thế loan báo Tin Mừng. Nhờ đó nhiều người
đã thoát khỏi sự lầm lạc do bè rối Albigeois gây ra và đã trở
về với Giáo Hội.
Cũng chính như thế đó, Đức Gioan XXIII đã lần chuỗi
Mân Côi như phương thế nuôi dưỡng đời sống mục tử của
ngài.
Đối với chúng ta cũng thế, không có lời cầu nguyện đích
thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời
chúng ta vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có
việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình -cùng
với Mẹ Maria- vào nẻo đường của Thiên Chúa. Hãy chạy
đến với Mẹ Maria để nhờ Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa
Giêsu.
17. Mẹ Đầy Ơn Phước – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của
lời hứa được loan báo trước kia giờ đây được chỉ định rõ
ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria,
Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi
nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta
cất lên lời chào: “Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria”.
Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy
vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ
Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn
để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa
bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ Maria qua
kinh Kính Mừng “Kính Mừng Maria đầy ơn phước” chúng
ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên
Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc
phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê
như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1:
“Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng.
Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con
yêu dấu của Thiên Chúa”. Mẹ Maria được đầy tràn niềm
vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước
niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải,
Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm
hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho
Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành
của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa
Abraham và con cháu ông”.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”, Mẹ Maria đã từng suy niệm lời
tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ
đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa
sâu xa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”, giây phút quan trọng nhất
của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu
rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một
cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là
Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước
sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong
niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
“Hỡi Maria, đừng sợ”, kinh nghiệm sự hiện diện của
Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người
run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện
diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc
lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã
nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài
và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm
vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh
nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này
như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa
giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn
vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui
của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện
ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt,
trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu
nguyện lên Thiên Chúa Cha:
“Lạy Cha là Chúa tể trời đất,
Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan kiêu
ngạo
Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha đã chọn Mẹ Mari để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng
con,
Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria
Đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Và nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con”.
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và
vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ
Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ
đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng
con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con.
Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu
chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ
cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì
được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng
con.
18. Phương thuốc thần diệu – Lm Trần Ngà.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Mọi tội lỗi của con người đều do một cội rễ mà sinh ra,
đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Sở dĩ thủy tổ loài người
là A-đam và E-và bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu
đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu đời
sau... là vì hai ông bà đã không vâng lời Thiên Chúa, không
đi theo đường lối Người. Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu
đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường
rầy, cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao vào vực
thẳm. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời
Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân...” (Rôma 5, 19)
Vậy muốn cứu loài người khỏi tội, khỏi đau khổ và sự
chết, thì vấn đề tiên quyết là phải diệt trừ tận gốc căn nguyên
gây nên tội, đó là tình trạng bất phục tùng Thiên Chúa.
Tràng chuỗi Mân Côi được xem là phương thuốc thần
diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha nầy vì chuỗi Mân
Côi dạy ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria
và Chúa Giê-su.
* Gương Vâng Phục Của Mẹ Maria
Lắm khi chúng ta muốn Thiên Chúa thi hành ý muốn của
mình hơn là mình phải thi hành ý Chúa.
Khi đau bệnh, chúng ta muốn Thiên Chúa chữa chúng ta
mau lành; khi đói khát, chúng ta muốn Thiên Chúa lo liệu
cho chúng ta cơm ăn nước uống; khi sắp đi thi, chúng ta
muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thi đậu; khi làm việc, chúng
ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thành công; khi hết tiền,
chúng ta muốn Thiên Chúa cho chúng ta đầy túi...
Nếu Thiên Chúa không mau mắn nghe lời chúng ta xin,
chúng ta sẽ hờn giận Chúa, chúng ta hăm bỏ đạo, có khi
chúng ta hạ bệ Chúa xuống khỏi bàn thờ...
Thế nhưng, dù Mẹ Maria được Thiên Chúa đưa lên địa vị
cao vời làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì Mẹ vẫn tự coi
mình là người nữ tỳ hèn mọn, không hề đòi hỏi Thiên Chúa
điều gì mà chỉ biết vâng theo lệnh Chúa truyền. “Tôi đây
là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần
nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ Maria dạy chúng ta
qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của người nữ tỳ
nơi Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa
đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác
(gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ
trên thiên quốc (gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Gương Vâng Phục Của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là
tấm gương vâng phục sáng chói của Chúa Giê-su trong mầu
nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi,
và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca
22, 44) thì Chúa Giê-su cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng
làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự
thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt
tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giê-su vẫn cắn
răng chịu đựng và xin thưa với Cha: “Xin cho ý Cha thể
hiện”.
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương
miện', chụp lên đầu Ngài, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ
báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giê-
su vẫn bằng lòng chịu đựng và xin thưa với Cha: “Xin đừng
theo ý Con, mà làm theo ý Cha”.
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá
nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội
khốn nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa
Giê-su vẫn xin vâng: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý
Cha”.
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau
thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại
thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giê-su vẫn một
lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ
làm. (Luca 23, 34)
Như thế, từ gẫm thứ nhất cho đến thứ năm thuộc mầu
nhiệm thương, rực sáng lên tấm gương vâng phục của Chúa
Giê-su. Tấm lòng vâng phục vô bờ bến đó đã được thánh
Phao-lô khắc hoạ lại trong bài ca gửi tín hữu Philíp:
“Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự...” (Philíp 2, 6-8)
Sự vâng phục đến mức tuyệt đối của Chúa Giê-su rất đẹp
lòng Thiên Chúa Cha nên Ngài đã cho Chúa Giê-su từ cõi
chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai
năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giê-su vượt bậc: “Chính vì
thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một
danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu...” (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-
su, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải
hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì
một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa,
mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất
(Chúa Giê-su) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ
thành người công chính.(Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi chứa đựng bài học vô giá về đức
vâng lời: Vâng phục Thiên Chúa là phương thuốc diệt trừ
tận gốc cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng Thiên Chúa;
vâng lời là phương thế giúp con người khỏi sa đoạ và là con
đường dẫn đưa nhân loại về cõi trời.
Phương thuốc thần diệu đó đã được Mẹ Maria và Hội
Thánh trao vào tay mỗi người chúng ta qua tràng chuỗi Mân
Côi. Ước gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ
ban để diệt trừ tận căn mầm mống tội lỗi ngay trong lòng
mình.
19. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ của Lm. Trần Ngà)
Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là
tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông
loài người là Ađam và E-và đã không vâng lời Thiên Chúa,
không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi
vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả
tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy.
Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn
tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi.
“Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên
Chúa, mà muôn người thành tội nhân... “ (Rôma 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch
đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo
đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giê-su chính là
“đầu tàu” nầy: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã
không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân,
thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giê-su) đã vâng lời
Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính”.
(Rm 5, 19)
Tràng chuỗi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ
kêu mời mọi người theo gót Chúa Giê-su và Mẹ Maria, đi
theo con đường vâng phục như Chúa Giê-su và Mẹ Maria để
được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ
lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình
vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của
E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên
Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là
một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai
Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn
mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền.
Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng:
“Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời
sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta
qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã
làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ,
ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm
thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên
quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giê-su
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là
tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giê-su trong mầu
nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi,
và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca
22, 44) thì Chúa Giê-su cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng
làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự
thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt
tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giê-su vẫn cắn
răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha:
“Xin cho ý Cha thể hiện”.
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương
miện', chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ
báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giê-su
vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: “Xin đừng theo
ý Con, mà làm theo ý Cha”.
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá
nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội
khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần
(gẫm thứ tư), Chúa Giê-su vẫn đi cho đến cùng con đường
Chúa Cha đã định: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý
Cha”.
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau
thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại
thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giê-su vẫn một
lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ
làm.(Luca 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-su rất đẹp lòng
Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giê-su từ cõi chết
sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm
sự mừng) và siêu tôn Chúa Giê-su vượt bậc: “Chính vì thế,
Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh
hiệu vượt trên mọi danh hiệu...” (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-
su, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải
hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì
một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa,
mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất
(Chúa Giê-su) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ
thành người công chính. (Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng
phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giê-su và Mẹ Maria.
Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giê-su
và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường
duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời
Chúa Giê-su dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy
Chúa! lạy Chúa! “ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ
ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới
được vào mà thôi” (Mt 7,21).
20. Kinh Mân Côi và Phúc Âm
(Lc 11,15-26)
Kinh Mân Côi là một việc đạo đức xuất phát từ Phúc Âm.
Đúng thế, trước hết là những lời kinh chúng ta đọc. Kinh lạy
Cha là gì nếu không phải là lời kinh chính Chúa đã truyền
dạy cho các môn đệ.
Còn kinh kính mừng là gì nếu không phải là lời chào của
sứ thần Gabriel và của bà Elisabeth, đã được Phúc Âm ghi
lại. Nhưng điều quan trọng hơn là những mầu nhiệm chúng
ta suy gẫm, tóm lược toàn bộ Tin Mừng và cuộc đời của
Chúa.
Có một thời người ta đã không lần hạt như ngày nay, thay
vì 15 mầu nhiệm, người ta đã suy gẫm tới 150 mầu nhiệm,
nghĩa là mỗi kinh kính mừng tượng trưng cho một mầu
nhiệm, từ khi sứ thần Gabriel truyền tin cho đến ngày vinh
quang của Mẹ Maria, cũng như cho đến ngày tận thế. Chắc
hẳn như vậy cũng khí thái quá, làm cho kinh Mân Côi trở
nên phức tạp và dài dòng.
Ngày nay chúng ta qui tụ lại thành 15 ngắm, tượng trưng
cho 15 mầu nhiệm, 15 biến cố chính yếu của cuộc đời Chúa
Giêsu và chúng ta có thể xác quyết: Kinh Mân Côi chính là
một bản tóm lược Tin Mừng và cuộc đời của Chúa. Hay nói
cách khác, đó chính là lịch sử ơn cứu độ được Thiên Chúa
ươm mơ và thực hiện trong dòng thời gian. Với một nội dung
như thế, kinh Mân Côi sẽ dẫn chúng ta đến với Tin Mừng,
vì vậy kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta
đọc trợt trạt ngoài miệng, nhưng còn là một lời kinh để cho
chúng ta suy gẫm, nhiều người hẳn đã rùng mình khiếp sợ.
Nhưng thực sự đây là một việc làm hết sức đơn giản và dễ
dàng. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến những mầu nhiệm, mường
tượng ra những biến cố, những hình ảnh như khi chúng ta
đi chặng đàng thánh giá. Dĩ nhiên không đòi buộc chúng ta
phải suy nghĩ từng chữ hay từng lời chúng ta đọc, mà chỉ cần
tưởng nhớ đến những sự kiện mà mỗi ngắm đã gợi lên. Cũng
không cần phải dừng lại lâu giờ nơi mỗi ngắm, vì đây không
phải là một giờ nguyện ngắm, một giờ suy niệm theo đúng
nghĩa của nó.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ, chẳng hạn chúng ta chỉ cần
mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thập giá, lần từng bước
tiến lên đỉnh đồi Canvê, đồng thời chúng ta hãy nghĩ tới
thập giá cuộc đời chúng ta là những hy sinh, những gian khổ
chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Và như vậy cũng đã đủ
lắm rồi.
Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, xét đoán
dựa vào những kết quả đã thu lượm được. Trái lại, Ngài là
một người Cha nhân từ, Ngài chỉ cần nhìn thấy thiện chí và
sự cố gắng của mỗi người chúng ta. Như vậy không có nghĩa
là bảo chúng ta không cần tiến tới sự trọn lành và thánh
thiện.
Sau cùng, kinh Mân Côi còn là một lời kinh thích hợp với
thời đại chúng ta. Trong đời sống không ai trong chúng ta lại
chán cơm. Nếu chúng ta chán cơm thì đó là dấu chỉ chúng ta
đau yếu hay sắp chết. Cũng vậy, trong đời sống siêu nhiên,
chúng ta không ngừng lập lại lời kinh Lạy Cha và kinh kính
mừng để lấy lại sức sống cho tâm hồn.
Bởi đó, hãy siêng năng lần chuỗi để nhờ đó chúng ta có
đủ sức chịu đựng những khổ đau và thắng vượt được những
cám dỗ trong cuộc sống.
21. Tôi là nữ tỳ của Chúa
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong
bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con
Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh,
là Con Thiên Chúa (c.35).
Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã
chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo.
Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương.
Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được
Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa
(c.30).
Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm
mẹ Đức Giêsu.
Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria.
Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao
cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng
Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô” (c.35).
Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ
theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những
dự định và tính toán riêng tư.
Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại
muốn cô làm mẹ và sinh con.
Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình
thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có
một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô
với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao
trắc trở, khó khăn, mờ tối.
Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông
mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài
không làm được.
Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác.
Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm
nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy
những ơn chúng ta không hề có.
Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những
bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời.
Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện
đó cần đến lòng tin.
“Phúc cho em là kẻ đã tin...” (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin
vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa
có còn đáng tin không?
Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ, tất cả
những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và
rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn
bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác
không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện,
qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi
nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa
không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên
đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ
ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi
bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng
sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận
đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng
con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay
đến gặp gỡ Thiên Chúa.
22. Chuỗi Mân Côi
1. Suy niệm về tràng chuỗi Mân Côi
Mân Côi là một bộ kinh để cầu nguyện với Mẹ Maria
gồm 200 kinh Kính Mừng, vừa đọc vừa suy gẫm 20 biến cố
quan trọng xảy ra trong cuộc đời Đức Giê-su và Mẹ Maria.
Cứ đọc 10 kinh Kính Mừng thì đồng thời suy gẫm một biến
cố. 20 biến cố ấy được chia làm 4 nhóm:
a) Năm sự vui: gồm 5 biến cố trong cuộc đời thơ ấu của
Đức Giê-su.
b) Năm sự sáng: gồm 5 biến cố trong cuộc đời công khai
của Đức Giê-su.
c) Năm sự thương: gồm 5 biến cố trong cuộc khổ nạn của
Đức Giê-su.
d) Năm sự mừng: gồm 5 biến cố vinh quang (Đức Giê-su
phục sinh và lên trời, Thánh Thần hiện xuống, Thiên Chúa
ân thưởng và tôn vinh Mẹ Maria).
20 biến cố ấy là những biến cố cốt yếu trong Tin Mừng,
nên có người nói chuỗi Mân Côi là một Tin Mừng được tóm
gọn. Vì thế, đọc kinh Mân Côi hay lần chuỗi là một hình
thức đặc biệt để suy gẫm Tin Mừng, theo kiểu miệng đọc
tâm suy. Miệng thì đọc các kinh Kính Mừng kính Mẹ Maria,
tâm thì suy niệm những biến cố của Tin Mừng, chủ yếu là
những biến cố quan trọng của cuộc đời Đức Giê-su. Như thế,
đọc kinh Mân Côi không chỉ là cầu nguyện với Mẹ Maria,
mà còn là suy gẫm về Đức Giê-su và cầu nguyện với Ngài.
Trong kinh Mân Côi, ta thấy có sự liên kết hết sức chặt
chẽ giữa Đức Giê-su và Mẹ Maria. 20 biến cố của kinh Mân
Côi đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới Mẹ Maria.
Chẳng hạn các biến cố của năm sự thương có vẻ như chỉ
là biến cố của Đức Giê-su, nhưng trong thực tế Mẹ Maria
luôn luôn theo dõi hoặc có mặt một cách âm thầm trong đó.
Những biến cố ấy ảnh hưởng rất sâu đậm đối với cuộc đời
Mẹ, và một cách nào đó cũng là những biến cố quan trọng
trong cuộc đời Mẹ. Những đau khổ của Đức Giê-su đều trở
thành đau khổ của Mẹ, vì thấy người mình yêu bị đau khổ,
và vì không ai yêu Đức Giê-su bằng Mẹ. Trong những đau
khổ ấy, Mẹ cũng đau khổ không kém gì Đức Giê-su, chỉ
khác ở chỗ người đau khổ trong thực tế, còn người đau khổ
trong tâm hồn.
2. Tại sao Mẹ Maria chỉ cho chúng ta cách cầu nguyện
bằng kinh Mân Côi?
Truyền thuyết trong Giáo Hội cho rằng kinh Mân Côi đã
được chính Mẹ Maria truyền dạy cho thánh Đa-minh, và khi
hiện ra tại Fa-ti-ma (Bồ Đào Nha), Đức Mẹ cũng khuyên
các Ki-tô hữu năng lần chuỗi Mân Côi. Chắc chắn Mẹ Maria
không vì muốn người ta ca tụng tung hô mình mà khuyên
họ tôn sùng trái tim mình và năng đọc kinh Mân Côi. Và
cũng chắc chắn rằng không phải hễ ai ca tụng Mẹ, năng đọc
kinh Mân Côi thì Mẹ sẽ đặc biệt ưu ái đối với người ấy vì
người ấy ca tụng Mẹ. Nếu Mẹ Maria khi còn sống đã khiêm
nhường hết mực, thì khi lên trời và làm Nữ Vương thiên
đàng, chắc chắn Mẹ cũng vẫn khiêm nhường như vậy, thậm
chí còn khiêm nhường cách hoàn hảo hơn nữa. Vì thế, ta
không thể xét đoán theo tâm lý ham được khen ngợi của con
người để nghĩ tương tự cho Mẹ Maria.
Chủ yếu trong việc truyền kinh Mân Côi cho loài người
là Mẹ muốn con người nên thánh thiện, hoàn hảo và nhờ đó
cá nhân được hạnh phúc, xã hội được bình an trật tự, có công
bằng bác ái, chứ không phải để Mẹ được tung hô khen ngợi.
Nhưng trong thực tế, không có một mẫu gương nào trên đời
đáng cho mọi người suy gẫm và bắt chước để nên thánh thiện
cho bằng Đức Giê-su và Mẹ. Nên vì ích lợi của con người,
Mẹ đã không ngần ngại đưa mình ra làm gương để con cái
bắt chước.
Thật vậy, trong gia đình, người mẹ lấy mình ra làm gương
cụ thể cho con cái bắt chước, thiết tưởng chẳng có gì là quá
đáng hay mang tính kiêu căng, mà trái lại là một phương
pháp sư phạm rất khôn ngoan. Vì đối với đứa con, chẳng có
gì gần gũi, thân thiện và cụ thể cho bằng người mẹ. Chẳng có
gương mẫu nào cụ thể dễ bắt chước cho bằng gương của mẹ.
Nếu vì ngại đưa mình ra làm gương nên đã đưa ra một gương
khác xa vời và kém xa mình cho con cái, thì thiết tưởng làm
như thế không phải là khôn ngoan, cũng chẳng phải là khiêm
nhường. Cốt tủy của khiêm nhường là tinh thần tự hủy,
không đặt nặng cái tôi, chứ không phải là hành vi tự hạ bên
ngoài. Tự hạ bên ngoài mà vẫn còn quan trọng hóa cái tôi thì
không phải là khiêm nhường. Chính khi tự lấy mình ra làm
gương mẫu vì nhắm ích lợi của con cái mình, Mẹ Maria càng
chứng tỏ Mẹ không đặt nặng cái tôi của mình.
3. Cách đọc kinh Mân Côi cho có ích lợi
Điều cốt tủy của kinh Mân Côi không phải là đọc cho đủ
các kinh Kính Mừng cho bằng việc chiêm ngắm các biến cố
quan trọng trong cuộc đời Đức Giê-su và Mẹ Maria để noi
gương và bắt chước. Nếu miệng đọc các kinh Kính mừng
còn tâm trí chiêm ngắm và suy nghĩ 20 biến cố cuộc đời Đức
Giê-su và Mẹ Maria, thì các kinh Kính mừng giúp ta hạn
định được số thời gian bằng nhau cho việc chiêm ngắm mỗi
biến cố. Nếu mỗi ngày ta đều đọc một chuỗi Mân Côi, thì
nhờ năng chiêm ngắm Đức Giê-su và Mẹ Maria trong các
biến cố cuộc đời các Ngài, mà ngày qua ngày, ta dần dần
trở nên giống các Ngài trong quan niệm, tư tưởng, lời nói và
hành động.
Theo các nhà tâm lý học, tự kỷ ám thị là một phương
pháp tự giáo dục vừa đơn giản, dễ dàng lại vừa hữu hiệu.
Không nói tới những ơn ích siêu nhiên, chỉ bàn tới khía cạnh
tâm lý tự nhiên thì kinh Mân Côi vốn là một phương pháp
tự kỷ ám thị rất khôn ngoan, có khả năng biến đổi bên trong
con người một cách từ từ nhưng hữu hiệu. Điều quan trọng là
có một khuôn mẫu tốt đẹp nào đó để tưởng tượng và nghĩ tới
thường xuyên. Ngày này qua ngày khác, con người làm như
thế sẽ được biến đổi giống y như khuôn mẫu ấy. Điều quan
trọng của tự kỷ ám thị không phải là nghĩ tới khuôn mẫu ấy
lâu giờ, mà là năng nghĩ tới khuôn mẫu ấy. Người chăm chỉ
đọc kinh Mân Côi thì ngày nào cũng chiêm ngưỡng cách
hành xử khuôn mẫu của Đức Giê-su và Mẹ Maria, nên sẽ
được biến đổi giống y như khuôn mẫu ấy một cách vô thức,
không cần phải cố gắng nhiều.
4. Còn khía cạnh siêu nhiên của kinh Mân Côi nữa
Nhưng kinh Mân Côi không chỉ là một phương pháp tự
kỷ ám thị để tự giáo dục và thánh hóa mình cách hữu hiệu
theo phương pháp tâm lý tự nhiên. Nó còn là một phương
tiện bảo đảm để kéo ơn Chúa xuống nữa, vì chính Đức Mẹ
đã hứa ban dồi dào ơn thánh cho những ai năng đọc kinh ấy.
Như thế, kinh Mân Côi vừa là một phương pháp tâm lý tự
nhiên, vừa là một phương thế siêu nhiên do chính Đức Mẹ
giới thiệu để nên thánh. Vì thế, kinh Mân Côi thật là một
cách cầu nguyện tuyệt vời đầy kết quả mà người Ki-tô hữu
khôn ngoan cần phải biết sử dụng để nên thánh và kéo ơn
lành xuống cho mình.
23. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?
(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân
Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu
thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu nhiệm Mân
Côi’ thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm?
Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt
cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong
khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng
trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế
có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần
hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay
còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu
hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc
lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố
xảy ra trong cuộc đời đức Giê-su và đức Maria, hầu giúp ta
nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên
sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm
thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu
độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội
xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan
tới đức Maria nói chung, theo như tác giả Luca trình bày, cho
thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các
biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa
vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và
xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Ki-tô hữu
đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và
xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” Câu hỏi
này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự
kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa
đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng
với đức Maria, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể
là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý
nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ..., những
chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những
kỳ vọng hay hoài bão...
Đối với một Ki-tô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận
tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình
yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với
Ki-tô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’
các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên
Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Ki-
tô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày
ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến
cố khác nữa, đã được đức Maria sống như thế. Mẹ đã ‘ghi
nhớ tất cả các điều ấy... và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc
2,19.51). Maria đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì
đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình
trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm
các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là điều tốt, nhưng rồi cũng
có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công
việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi
sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh
hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa
trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn
thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống
thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay
xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng
hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi
không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc
chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới
một cuộc sống Ki-tô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo
nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu
độ, và mau mắn biến đổi đời tôi – không theo nghĩa ngày
càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn – nhưng ngày càng
thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và
trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả
những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người.
Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa
thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh,
và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần Mân
Côi!”
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân
Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa
đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu
nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: “Vì đối
với Thiên Chúa – nhân lành, không có gì là không thể làm
được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ
trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.
24. Suy niệm của Lm. FX. Đào Trung Hiệu
KINH MÂN CÔI GÓP PHẦN XÂY DỰNG NHÂN
LOẠI MỚI
Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà là hình ảnh
của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà quen dùng Kinh
Mân Côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ
cách bao xa, bà trả lời: "Đi được ba chuỗi năm chục". Nghĩa
là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng ba cây số.
Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt
nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc
phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ
Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng
Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn
tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá
này, và hơn thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh
Mân Côi trong suốt cuộc sống.
Kinh Mân côi là một hình thức cầu nguyện đơn giản
nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế
kỷ. Đơn giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng
đọc một mình trong mọi tình huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và
dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể tích cực
tham gia. Nhưng Kinh Mân Côi lại rất phong phú, vì có bao
nhiêu sách viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu
nhiệm nguồn suy niệm dồi dào, dường như không bao giờ
cạn.
Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho con
người và là lời ngợi ca cuộc sống.
Gương một nhà trí thức...
Mỗi người có thể rút ra một bài học qua mẩu chuyện sau:
Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên mặt
mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối diện
với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc
kinh.
Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng nói: "Bác ơi ! thời
buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa
à!".
Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời: "Cám ơn cậu, cậu
có vẻ thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe đi".
Thế là chàng trai có dịp khoe về mình: anh đang học năm
cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị
đoan lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế
giới mới chứ không phải những tôn giáo ảo tưởng của người
xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ suốt nửa tiếng.
Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn
mời anh khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và
trao cho cậu một tờ danh thiếp.
Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì
trên danh thiếp ghi tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán
phục: "Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp"
Êm đềm mà thấm lâu...
Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều người đạo đức
coi thường Kinh Mân Côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô
hữu là hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái
Phúc Âm. Không sai, nhưng chưa chính xác. Thế nhưng, họ
chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của những lời
kinh đơn giản này.
Ta biết các vận động viên và các cầu thủ, dù thuộc bộ
môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua... đều không thể bỏ
những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi
chính là thực hiện một việc rất đơn giản như việc hít thở.
Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật giáo đều có xâu
chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một
khoảng thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với
Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập trung, Đấng tuyệt đối vẫn
làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa cách
thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và
đem lại cho mọi hoạt động của họ một giá trị mới.
Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày càng được gắn
bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu
độ. Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo
gương Đức Kitô nhập thể trong ngày lễ Truyền Tin, theo
gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra giảng về
Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và
sống lại vinh quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên
quốc như một hứa hẹn cho tương lai của giáo hội và nhân
loại.
Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua đoạn sách Công
vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống
trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông
đồ xưa trong ngày lễ ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức
Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần mà ra đi loan
báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ
Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước
đường sứ vụ.
Hướng đến một nhân loại mới
Lời kinh "Kính Mừng" quen thuộc, chính là lời chào
mừng "Ave: Mừng vui lên" của thiên sứ Gabriel thưa với
Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm
nay (1, 28).
Lời chào "Ave" ấy không chỉ gửi đến cho mình Mẹ
Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào "Đấng đầy
ơn sủng", chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa
trong vườn địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã:
về người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa đàng (bài
đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng
thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy
được tràn đầy ân sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ
ấy được so sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người
nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện
diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ
kính Đức Mẹ:
"Chữ E-va Mẹ đảo vần, Thành A-ve gửi bình an cho đời".
Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa tại vườn địa đàng.
Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân
loại. Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel "Thiên Chúa ở
cùng". Lời hứa ấy nay được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể
trong cung lòng Đức Trinh Nữ: "Này đây bà sẽ thụ thai, sinh
hạ một con trai và đặt tên là Giêsu". Giêsu có nghĩa là Chúa
Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: "Và Giêsu
Con lòng Bà đầy phúc lạ".
Đọc kinh "Kính Mừng", ta có thể cảm thấy tâm trạng
tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động viên
Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới "cao
hơn, nhanh hơn, xa hơn". Khi chúc mừng một vận động viên
lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của
một dân tộc và của cả nhân loại...
Cũng vậy, qua những lời "Kính mừng Maria đầy ơn
phúc", chúng ta chiêm ngưỡng một "kỷ lục tuyệt hảo" của
nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo
của nhân loại mới.
Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó, chúng ta không chỉ
là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh "Kính Mừng"
không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc
mừng một nhân loại mới đang được hình thành.
Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta sẽ chìm sâu vào
tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời
Ngài kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử
cứu độ và tìm được sức mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của
mình trong lịch sử. Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi đến
kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.