Theo xã hội, tháng Năm có Ngày Hiền Mẫu (Ngày của Mẹ) được cử hành vào Chúa Nhật thứ nhì; còn theo tôn giáo, tháng Năm là Tháng Đức Mẹ – Tháng Hoa. Như vậy, chúng ta thấy tháng Năm có “mối liên hệ” đặc biệt với nữ giới. Mẹ là nữ giới, nữ giới được ví như bông hoa.
Người Do Thái có cuốn sách kinh điển là cuốn Talmud (*), trong đó có ghi câu này: “Phụ nữ đi ra từ chiếc xương sườn của người nam, chứ không từ bàn chân của chàng để làm tấm thảm chùi chân chàng, cũng không từ cái đầu để mà cao hơn chàng, mà từ cạnh sườn của chàng để làm người đồng hàng với chàng, ngay bên dưới cánh tay chàng để được che chở, và cạnh bên trái tim chàng để được yêu thương”. Câu nói thật là ý nghĩa!
Câu nói trong sách Talmud rất “gần gũi” với sách Sáng Thế của Công giáo, nói về việc Thiên Chúa dựng nên phụ nữ từ chiếc xương sườn của đàn ông (St 2:18-22), rồi đàn ông khoái chí và định nghĩa về đàn bà: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra” (St 2:23). Một cách định nghĩa thật là thú vị. Điều đó có nghĩa là một nữ và một nam được Thiên Chúa liên kết thành vợ chồng qua bí tích Hôn Phối, như Chúa Giêsu xác định: “Họ KHÔNG còn là HAI, nhưng chỉ là MỘT XƯƠNG MỘT THỊT. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người KHÔNG được phân ly” (Mt 19:6; x. St 2:24).
Sự kết hợp Âm Dương cũng kỳ lạ: Nữ giới là Âm, nam giới là Dương; đất là Âm, trời là Dương; đêm là Âm, ngày là Dương. Và cũng thật kỳ lạ là để có thể phát ánh sáng, phải có cực Âm và cực Dương. Con người “phát hiện” quy luật đó nhờ Tạo Hóa đã sáng tạo, mà Đấng đó chính là Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nữ hay nam thì cũng là thụ tạo của Thiên Chúa. Nữ và nam khác nhau là do đã được cài mặc định từ thuở hồng hoang. Chẳng hạn, phụ nữ thích nói nhiều vì cả hai bán cầu não cùng hoạt động một lúc, còn nam giới chỉ một bán cầu não hoạt động, thế nên họ ít nói hơn. Âu cũng là sự bù đắp lẫn nhau, bởi vì con người là thụ tạo bất toàn, cho nên Thiên Chúa đã thiết lập Bí tích Hôn Phối để kết hợp hai người khác phái, Âm Dương trái dấu thì hút nhau, nhờ vậy mà bổ túc lẫn nhau.
Người ta thường nói: “Nhất vợ, nhì trời”. Phụ nữ muốn là trời muốn. Nàng rất mềm mà cũng rất cứng. Lạ lùng là chính sự yếu mềm của phụ nữ lại chính là vũ khí sắc bén của họ. Bạn thấy nước đó, rất mềm mà cũng rất mạnh, không gì cưỡng lại nổi đâu. Và lửa cũng vậy đấy. Có thể ví phụ nữ như nước và lửa vậy!
Người ta vẫn thường nói nhiều về phụ nữ. Carlo Goldini nhận định: “Khi một người đàn bà nổi giận, chỉ bốn cái hôn nhỏ cũng đủ làm cho nàng nguôi liền”. Và Édouard Bourdet so sánh: “Tiền bạc cũng như đàn bà: muốn giữ nó thì phải săn sóc nó, bằng không nó đi tạo hạnh phúc cho người khác”. Còn Jean Jacques Rouseau phân tích: “Cái khổ của đàn ông là vợ ghen, cái khổ của đàn bà là chồng vui tính”. Mỗi người mỗi cách nhìn, cách nào cũng chí lý.
Về vấn đề ghen tương, Oscar Wilde nhận xét: “Người phụ nữ bình thường luôn ghen với chồng mình. Còn người phụ nữ xinh đẹp thì lúc nào cũng quá bận rộn với việc ghen chồng người khác”. Thật ngạc nhiên với nhận xét của Luigi Pirandello: “Phụ nữ giống như những giấc mơ, chẳng bao giờ như cách mà bạn muốn”. Thiên hình, vạn trạng. Không ai biết đâu mà mò. Thật vậy, giữa yêu và ghét ở phụ nữ, đó là một “khe” rất hẹp, một sợi tóc cũng không lọt vào khe này.
Đàn bà khôn ngoan hơn đàn ông vì đàn bà biết ít hơn nhưng lại hiểu nhiều hơn. Tuy nhiên, người ta còn kinh ngạc hơn về lời của bà De Rieux: “Phải là người đàn bà mới biết cách trả thù thâm độc nhất”. Chính phụ nữ nói thì hẳn là mức độ chính xác rất cao, không chủ quan như nhận xét của người khác phái. Và như vậy thì… đáng sợ thật!
Có phụ nữ cũng khổ, thiếu phụ nữ cũng khổ. Có lẽ gia đình nào cũng dày dạn kinh nghiệm về vấn đề này. Hàng ngày nghe phụ nữ cằn nhằn thì cả chồng và con cái đều cảm thấy “nhức đầu”, nhưng “bà nội tướng” đi vắng vài ngày thì cha con mới biết là rất cần có “bà hay la lối” ấy. Thật là nhiêu khê! Và đây, hãy nghe Cherles Bukowski nhận xét: “Nếu bạn kết hôn thì người ta cho là bạn xong đời rồi, nhưng nếu bạn không kết hôn thì người ta cho là bạn chưa trọn vẹn”.
Không phải người đời có ác ý mà “nhắm” vào nữ giới. Kinh Thánh cũng nói nhiều về nữ giới, thậm chí còn “nói nặng” nữa. Và như chúng ta đã biết, sách Sáng Thế đã cho biết tội bất tuân của loài người là do Đệ Nhất Phu Nhân Eve, “nội tướng” và chiếc-xương-sườn của Ông Tổ Ađam.
Người ta có cách so sánh độc đáo thế này: “A-xít làm cháy tiền, tiền làm cháy tim đàn bà, nước mắt đàn bà làm cháy tim đàn ông”. Ui da, thảo nào Ông Tổ Ađam nghe vợ năn nỉ ỉ ôi mấy câu mà đã hóa mềm nhũn như bún thiu, phải nghe nàng vì sợ mất nàng, thế là Ông Tổ “chết ngắc” chỉ vì miếng táo. Và cả nhân loại phải lãnh hậu quả: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51 [50]:7). Do đó, là phàm nhân thì không ai lại không là tội nhân. Đúng là “đời cha ông ăn mặn, đời con cháu khát nước”. Khốn khổ con cháu quá, Ông Bà Nguyên Tổ ơi!
Rồi đến dũng nhân Samson, một người khỏe mạnh vô địch, ấy thế mà cũng sập bẫy cô vợ chỉ vì nước mắt của nàng khi nàng khóc tỉ tê: “Anh chỉ có ghét em thôi, chẳng yêu em chút nào. Anh ra câu đố cho đồng bào em, mà lại không giải cho em” (Tl 14:16). Samson nói rằng cha mẹ cũng không biết. Thế là bà chơi khúc bi ai bằng điệp khúc tỉ tê suốt bảy ngày, Samson hết chịu nổi, bèn cho nàng biết đáp án. Thế là tiêu đời Samson. Nước mắt phụ nữ kinh khủng thật. Yếu mà ra gió là chết chắc!
Và đặc biệt hơn, trình thuật Hc 25:13-26 cho chúng ta biết rõ mưu thâm kế quỷ của phụ nữ như thế nào. Nghe nói “mưu thâm kế quỷ”, nữ giới đừng vội trợn mắt hoặc nổi cơn tam bành với kẻ viết bài này, còn nam giới cũng đừng vội mỉm cười và gật gù thỏa mãn!
Kẻ viết không bịa đặt hoặc thành kiến với ai, nhưng Kinh Thánh nói rạch ròi lắm. [Có lẽ những câu này ít người muốn “ngó” tới, và Phụng Vụ cũng không trích dẫn những câu này]. Hãy bình tĩnh đọc và ngẫm vài câu trong chương 25 của sách Huấn Ca:
Câu 13:“Không vết thương nào sánh nổi vết thương lòng, không sự dữ nào bằng sự dữ do đàn bà gây nên, không độc ác nào bằng độc ác của người phụ nữ”.
Câu 14:“Không cái khổ nào bằng cái khổ do kẻ ghét ta gây nên. Không sự báo thù nào như sự báo thù của kẻ địch”.
Câu 15-16:“Không nọc độc nào như nọc độc của loài rắn. Không cơn giận nào bằng cơn giận của kẻ thù. Tôi thà ở chung với sư tử hay rắn rết còn hơn chung sống với người đàn bà xấu xa”.
Câu 17-18:“Lòng độc ác biến đổi nét mặt người đàn bà: mặt y thị tối sầm như mặt gấu. Chồng thị ngồi ăn với hàng xóm láng giềng cứ buộc lòng phải thở than cay đắng”.
Câu 19:“Mọi gian ác đều chẳng thấm vào đâu so với gian ác của người đàn bà; thị sẽ phải chịu số phận của phường tội lỗi”.
Câu 20:“Đàn ông trầm lặng sống với đàn bà lắm điều chẳng khác chi đôi chân cụ già phải leo lên đồi cát”.
Câu 21:“Đừng để nhan sắc người đàn bà lôi cuốn con, và cũng đừng ham muốn phụ nữ”.
Câu 22:“Vợ mà phải nuôi chồng ắt sẽ nổi xung, hỗn láo và làm cho chồng mất mặt”.
Câu 23:“Con tim suy nhược, nét mặt buồn rầu, tâm hồn tan nát: tất cả đều do người đàn bà độc dữ. Tay chân rã rời, đầu gối bủn rủn: cũng tại người vợ không biết tạo hạnh phúc cho chồng”.
Câu 24:“Tội bắt đầu có là do đàn bà, và cũng tại đàn bà mà tất cả chúng ta phải chết”.
Câu 25-26:“Đừng khai mương cho nước chảy, cũng đừng để cho đàn bà độc dữ tự do ăn nói. Nếu con đưa tay làm hiệu mà nó chẳng theo thì con hãy đoạn tuyệt với nó”.
Chỉ có 13 câu ngắn gọn mà “chuyển tải” được nhiều vấn đề quá!
Lưỡi vừa tốt vừa xấu – cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Có lưỡi mới nói được. Có lưỡi mà ngắn thì nói khó, nói không rõ. Lưỡi sinh ra lời, tiếng nói, thoại ngữ. Nhưng “lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Vì thế, đừng để cho “cửa họng như nấm mồ mở rộng, khéo đẩy đưa ba tấc lưỡi phỉnh phờ” (Tv 5:10). Lưỡi ngắn mà dài, được “minh họa” qua lời nói. Hãy cảnh giác kẻo sẽ kiêu ngạo mà tự nhủ: “Sức mạnh ta là ba tấc lưỡi, với môi mép này, ai làm chủ được ta?” (Tv 12:5). Các “bà tám” (dù nữ hay nam) có loại hung khí đặc biệt là cái lưỡi: “Miệng tha hồ nói năng ác độc, ba tấc lưỡi đặt điều xảo trá; hễ ngồi lê là bới xấu anh em và bêu diếu cả người ruột thịt” (Tv 50:19-20). Đáng sợ thật!
Có câu chuyện ngụ ngôn về cái lưỡi như thế này…
1. Ngày xưa, có một ông vua nước Ai Cập gửi cho nhà hiền triết Bias một con vật vừa quí vừa hiếm để tế lễ các thần của mình. Tuy nhiên, ông vua này muốn chơi khăm nhà hiền triết nên nói:“Sau khi cúng xong, ngươi phải trả lại cho ta cái gì vừa tốt nhất vừa xấu nhất nơi con vật quí hiếm ấy”.
Nhà hiền triết liền xẻo ngay cái lưỡi mà trao cho ông vua. Cử chỉ đó gián tiếp xác định điều này:“Cái lưỡi là phần tốt nhất nếu biết sử dụng, nhưng đồng thời cũng là phần xấu nhất nếu không biết sử dụng”. Thật thâm thúy!
2. Lão Tử là người thông minh, tài giỏi. Một hôm, nghe tin thầy giáo là Thương Dung bị bệnh nặng, Lão Tử đến thăm và mời thầy ăn chút gì để chống lại bệnh hiểm nghèo. Nhân lúc thầy giáo tỉnh, Lão Tử xin thầy cho ý kiến dạy bảo thêm. Thương Dung thấy Lão Tử không những thông minh mà còn khôn ngoan, ham học, có suy nghĩ sâu sắc. Thầy Thương Dung mở rộng miệng cho Lão Tử xem và hỏi:
– Lưỡi của ta còn không?
– Thưa thầy, lưỡi của thầy còn ạ!
– Thế răng của ta còn không?
– Thưa thầy không còn ạ!
– Anh có biết ta hỏi anh vấn đề này có thâm ý gì không?
Lão Tử trả lời:
– Dạ, thầy sống rất thọ. Sở dĩ cái lưỡi còn vì nó mềm, răng rụng hết vì nó cứng. Thưa thầy, phải thế không ạ?
Thương Dung nghe Lão Tử trả lời vậy vui vẻ nói:
– Đúng lắm! Cách lý giải của anh hoàn toàn chính xác. Lưỡi vì mềm mà còn được lâu, răng vì cứng nên rụng hết. Đạo lý này không chỉ đúng với răng và lưỡi, mà đối với mọi việc trong thiên hạ cũng đều như thế cả!
Trung dung là cách sống khôn ngoan. Sống thật khó, giữ mồm giữ miệng chẳng dễ, vì con người có “máu” tự ái và giả hình, muốn nói cho hả giận! Hãy nghe tác giả Thánh Vịnh thẩm vấn: “Hỡi kẻ gian hùng, khoe chi tội ác? Suốt ngày ngươi tính kế hại người! Này hỡi tên chuyên nghề lừa đảo, lưỡi ngươi khác nào dao sắc bén” (Tv 52:3-4).
Đối với những người khéo khua môi múa mép – nói cho ra vẻ “êm tai” thì gọi là “người khéo nói”, tác giả Thánh Vịnh so sánh thế này: “Chiều đến, chúng trở lại TRU LÊN NHƯ CHÓ và CHẠY RÔNG khắp thành. Này chúng BA HOA SÙI BỌT MÉP, LƯỠI KIẾM Ở ĐẦU MÔI(Tv 59:7-8). Cách ví von “nặng nề” lắm đấy!
ÍT NÓI không có nghĩa là NÓI ÍT, mà là KHÔNG NÓI ĐIỀU VÔ ÍCH. Đôi khi người ta phải nói, thậm chí là nói nhiều. Dù nói ít hay nhiều thì phải làm sao chúng ta có thể tự hào như tác giả Thánh Vịnh mà chia sẻ điều này: “Lòng trào dâng những lời cẩm tú, miệng ngâm thơ mừng chúc thánh quân, lưỡi tôi ví tựa tay người phóng bút” (Tv 45:2). Ngôn ngữ có hai dạng: Nói và Viết. NÓI là dạng ngôn ngữ vô tự (không có chữ viết), còn VIẾT là dạng ngôn ngữ vô ngôn (không có tiếng nói).
Ngôn hành phải song song. Nói hoặc viết đều phải thể hiện bằng hành động. Tác giả Thánh Vịnh đặt vấn đề và đưa ra đáp án: “Ai là người thiết tha được sống, ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc chứa chan? Phải GIỮ MỒM GIỮ MIỆNG, đừng nói lời gian ác điêu ngoa; hãy LÀM LÀNH LÁNH DỮ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” (Tv 34:13-15).
Thiên Chúa và Kinh Thánh luôn đề cao các mỹ từ và mỹ ngôn. Người đời cũng quý trọng các lời nói tốt đẹp. Thật vậy, ngạn ngữ Anh có câu: “Lời nói đẹp là chi phí thấp nhất để thu lợi cao nhất”. Còn Publilius Syrus (sinh năm 85 trước CN, mất năm 43 trước CN), văn sĩ Latin, chia sẻ kinh nghiệm: “Tôi thường hối tiếc vì những gì mình nói, chứ không bao giờ hối tiếc vì sự im lặng của mình”.
Tài năng được tỏa sáng nhờ sự im lặng, còn sự kém cỏi thường tự lan tỏa bằng âm thanh – ngụ ý “lời nói”. Nói nhiều chính là “bức bình phong” để che giấu sự trống rỗng của tâm hồn vậy!
Đức Mẹ không nói nhiều, chỉ “ghi nhớ mọi kỷ niệm và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19). Còn Đức Thánh Giuse hoàn toàn im lặng, cả bộ Kinh Thánh và các tài liệu đều không nhắc gì tới di ngôn nào của Con Người Công Chính này. Sự im lặng rất cần. Đó là “miền sa mạc” cần thiết để có thể gặp gỡ Thiên Chúa. Im lặng để suy niệm. Im lặng để suy tư. Suy tư để biết mình, biết người, biết xử thế.
Con người đa dạng, lắm kiểu nhiêu khê, tổng quát và ngắn gọn là chia làm hai loại chính – Tốt và Xấu. Chắc chắn Thiên Chúa rất ghét loại người xấu, vì Ngài là Đấng chí thánh và chí nhân. Tuy nhiên, Ngài cũng chẳng ưa loại người “lửng lơ con cá vàng”, như Kinh Thánh đã xác định: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:15-16). Ngài cũng đang nói như vậy với mỗi chúng ta ngay bây giờ đấy. Ngay cả phàm nhân – vốn dĩ là những người xấu xa (x. Lc 11:13) và đầy tội lỗi – cũng chẳng ai ưa loại người “dở hơi” như vậy!
Phụ nữ đầu tiên, Bà Tổ Êva đã bị “lưỡi rắn” mà phun “mật ngọt” vào Ông Tổ Ađam, khiến Ông Tổ mù quáng rồi suy sụp hoàn toàn vì bị “nọc độc” làm tê liệt cả thể lý lẫn tinh thần. Nhưng rồi Đức Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa, đã đạp nát đầu con-rắn-ma-quỷ thâm độc đó và dẫn đưa nhân loại đến với Thiên Chúa hằng sinh.
Nói về phụ nữ, không phải là do định kiến hoặc nhìn họ với cặp mắt kính râm hoặc đen thui, mà để cân nhắc và đề phòng. Thực tế vẫn có những phụ nữ tuyệt vời. Đức Maria là điển hình. Chúa Giêsu luôn quý mến và đánh giá cao nữ giới. Thật vậy, Ngài thường ghé thăm chị em Mácta và Maria ở Bêtania, Ngài đã hiện ra đầu tiên với bà Maria Mácđala (Mađalêna) sau khi Ngài phục sinh. Các phụ nữ đã theo Chúa Giêsu suốt đường lên Đồi Sọ, và cũng chỉ còn các phụ nữ đứng bên Thánh Giá. Phụ nữ can đảm thế đấy, còn nam giới chỉ mạnh miệng và lẻo mép, rồi bỏ chạy hết trơn.
Rồi thời Giáo hội sơ khai, các phụ nữ giúp đỡ các tông đồ rất nhiều công việc. Ngày nay cũng vậy, các nữ tu và quý bà vẫn là các trợ thủ đắc lực trong việc truyền giáo. Ai dám chê họ là liễu yếu đào tơ? Đôi khi họ “lắm chuyện” một chút thôi, chứ họ tác dụng hiệu quả lắm đấy!
Xã hội cũng vậy, đã và đang có nhiều phụ nữ giỏi giang và xuất chúng trong các lĩnh vực mà trước đây chỉ có nam giới. Cứ động viên và cứ để họ làm, công việc có khi còn tốt hơn nhiều. Nam giới đừng vội ảo tưởng hoặc “chảnh” đấy nhá!
Tóm lại, phàm nhân quá yếu đuối – với đầy đủ thất tình (hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục) và “tam độc” Tham-Sân-Si. Vì thế, con người luôn cần Thiên Chúa phù trợ. Như vậy, chúng ta phải luôn chân thành van nài Đấng-giàu-lòng-thương-xót: “Xin canh giữ MIỆNG con, lạy Chúa, và trông chừng LƯỠI con. Xin đừng để lòng con nghiêng về sự dữ, đừng để con làm điều ác với bọn gian tà ” (Tv 141:3-4).
TRẦM THIÊN THU
Mạng Lưới Cầu Nguyện
CHÚ THÍCH:
(*) Talmud (tiếng Do Thái làתַּלְמוּד – nghĩa là “giảng dạy, học tập”, cũng có nghĩa là “giảng dạy, nghiên cứu”) là văn bản chính của giáo sĩ Do Thái giáo [rabbinic], cũng được gọi theo cách truyền thống là Shas [ש"ס], một từ viết tắt trong tiếng Do Thái là shisha sedarim, tức là “sáu thứ bậc” trongKhẩu Luật (luật miệng) của Do Thái giáo.
Talmud có hai phần: Mishnah (tiếng Do Thái là משנה, năm 200 sau công nguyên), bản tóm đầu tiên bằng văn bản của Khẩu Luật của Do Thái giáo, và Gemara (năm 500 sau công nguyên), giải thích cho tác phẩm Mishnah và liên quan tới các bài viết Tannaitic mà thường xuyên đề cập các đối tượng khác và được giải nghĩa rộng rãi trong Kinh Thánh Do Thái. Thuật ngữ Talmud và Gemara thường được sử dụng thay thế cho nhau, mặc dù không được thống nhất. Toàn bộ kinh Talmud bao gồm 63 bài luận, trong bản in tiêu chuẩn dài hơn 6.200 trang, được viết bằng tiếng Tannaitic của Do Thái và tiếng Aram của Sy-ri. Talmud bao gồm những ý kiến của hàng ngàn giáo sĩ Do Thái về nhiều chủ đề– bao gồm pháp luật, đạo đức, triết học, phong tục, lịch sử, thần học, truyền thuyết và nhiều chủ đề khác. Talmud là cơ sở cho tất cả các bộ luật của luật giáo đoàn Do Thái giáo và được trích dẫn nhiều trong các tài liệu khác của giáo đoàn.
NGƯỜI CÔNG GIÁO và ƠN CỨU ĐỘ
“Tại sao người Công giáo không loan báo ơn cứu độ?” Đó là vấn đề được một người Tin Lành đặt ra đối với tôi.Người này đang tìm hiểu để gia nhập Giáo hội.Vấn đề này ẩn giấu sự kết án và người này có ý nói rằng điều đó không đúng. Người này cũng không biết cách trả lời thế nào là đúng.
Thực sự nhận thức đó đã lan rộng, cho rằng người Tin Lành loan báo về ơn cứu độ, còn người Công giáo thì không. Chính tôi cũng đã từng cho là như vậy. Đó là một loại sự thật: Tôi chắc rằng, vào bất kỳ Chúa Nhật nào,nếu bạn tới một nhà thờ Tin Lành sẽ có thể nghe những sứ điệp minh nhiên về Ơn Cứu Độ, nhưng bạn sẽ chẳng nghe được điều đó tại một giáo xứ Công giáo.
Như vậy, người Công giáo không rao giảng về ơn cứu độ chăng?
Khi tôi suy nghĩ về vấn đề này, tôi nghĩ tới bài giảng tôi đã nghe. Một bài giảng vào Chúa Nhật Chúa Chiên Lành về chủ chăn hiến mạng sống vì đoàn chiên(Ga 10). Một bài giảng về tông đồ Thomas đa nghi (Lc 24).
Chúa Nhật trước đó Phúc Âm nói về phép lạ mẻ cá lạ(Ga 21), tôi nhớ lại bài giảng về cách chúng ta kết hiệp sự hy sinh của mình với sự hy sinh của Đức Kitô trong Thánh Lễ, phù hợp với câu chuyện trong Phúc Âm về cách các môn đệ đem cá tới cho Chúa Giêsu và rồi Ngài gọi họ tới ăn cá nướng. Ngày Chúa Nhật Phục Sinh, Đức giám mục tại giáo phận của tôi có một bài giảng tập trung vào vấn đề chúng ta có gặp Chúa phục sinh hay không.
Tôi không nhớ người giảng nói cách nào chúng ta được cứu độ, như vậy bài giảng không nói về Ơn Cứu Độ sao?
Tôi không nghĩ vậy. Làm sao chúng ta có thể biết ai đó được cứu độ mà không gặp Đấng phục sinh? Làm sao các hy sinh chúng ta dâng lên để kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu lại không liên quan Ơn Cứu Độ?
Các bài giảng đưa ra các cách thức khác nhau mà người Công giáo và Tin Lành nói về Ơn Cứu Độ. Đó không là vấn đề. Mọi điều trong đạo Công giáo được đặt ra đều hướng tới Ơn Cứu Độ. Cho người đói khát được ăn uống hoặc chăm sóc bệnh nhân theo lệnh Chúa truyền là điều cần thiết để được thừa hưởng Thiên Quốc (Mt 25).Khi ăn chay, từ bỏ mọi quyến luyến với vật chất, và trau giồi tinh thần nghèo khó là chúng ta sống theo lời khuyên Chúa Giêsu nói với người giàu có (Lc 18).Khi lãnh nhận Thánh Thể, chúng ta được bảo đảm“sự sống đời đời” trong chúng ta, như Chúa Giêsu đã hứa(Ga 6).
Vẫn còn vấn đề đáng để trả lời trực tiếp. Có vài cách khác nhau để chúng ta trả lời vấn đề này. Về các bí tích, chúng ta cần bí tích Thánh Tẩy để rửa sạch tội Nguyên Tổ, bí tích Thánh Thể là sự hy sinh cao cả của Đức Kitô dành cho chúng ta, và bí tích Hòa Giải tha thứ tội lỗi chúng ta đã phạm từ khi được rửa tội.
Chúng ta cũng có thể nói về đời sống nội tâm của người nào đó. Đức tin là điều cần thiết để được cứu độ, nhưng đó mới chỉ là khởi đầu. Bởi vì đức tin sống động qua tình yêu (Gl 5:6). Do đó, chúng ta phải yêu thương nhau (1 Ga 4:8). Như vậy, Ơn Cứu Độ đến không qua cách tuyên xưng thoáng qua,mà phải thể hiện suốt đời,và đức tin đó phải phát triển trong tình yêu.
Tình yêu này thể hiện qua hành vi bác ái. Đó là chứng tỏ qua hành động. Nhưng vị trí đúng phải được hiểu biết: đó không là vấn đề tích lũy đủ các việc lành, mà là mức độ“tỏa sáng” của lửa yêu mến đốt trong lòng chúng ta.
Chính tình yêu đó tạo nên mọi sự khác biệt. Tình yêu không đòi hỏi mức tối thiểu chúng ta có thể làm,nhưng đòi hỏi mọi thứ chúng ta có thể làm cho tha nhân vì lòng yêu mến Thiên Chúa. Tình yêu vô hạn, không có điểm dừng. Không có điểm cho biết đủ mức độ yêu thương để được cứu độ – bởi vì đó không là những gì chúng ta cố gắng làm, không là cách yêu theo cách nghĩ của chúng ta. Yêu thương là công việc cần mẫn. Kinh Thánh và Giáo huấn Công giáo xác định rằng mọi thứ đều nhờ ân sủng của Thiên Chúa.
Chúng ta lần chuỗi, làm tuần cửu nhật, hoặc lặng lẽ chầu Thánh Thể,đó là cách chúng ta thể hiện đức tin và đức mến: chúng ta thể hiện đức tin trong sự thật về Chúa Giêsu và thể hiện đức mến đối với Ngài. Kiêng thịt ngày Thứ Sáu Mùa Chay, giúp đỡ người nghèo, hoặc đơn giản là ngước nhìn Thánh Giá với lòng mến, đó là những hành động nhỏ bé nhưng có thể ích lợi cho chúng ta trên hành trình tiến về trời.
Đối với người Công giáo, ơn cứu độ giống như một món thịt hầm với đủ thứ trong đó, mỗi thứ một chút – những miếng thịt bò, thịt heo, cà-rốt, rau cải, gia vị,…thậm chí có thể có ít xương trong đó. Tạ ơn Chúa, bởi vì tôi thích “món hầm chân thật” hơn là nước luộc gà mà chẳng có chút thịt gà nào!
(chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)
Tác giả bài viết: STEPHEN BEALE TRẦM THIÊN THU
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn