Toàn bộ dụ ngôn Đức Giê-su kể hôm nay dựa trên hai từ đầy ý nghĩa, được nhấn mạnh khi nằm ở đầu và cuối câu chuyện, theo kiểu “đóng khung” của văn chương Sê-mít. Mở đầu, có một kẻ tự tin mình là “công chính” (“dikaios” trong tiếng Hy Lạp). Kết thúc, có một kẻ “được nên công chính” khi trở về nhà (Nguyễn Thế Thuấn: “được giải án tuyên công”, “dédikaiômenos” trong tiếng Hy Lạp). Bài học của Tin Mừng nằm trọn trong hai chữ này. Việc chuyển từ thể chủ động sang thể thụ động nói lên nhiều điều, như ta sẽ thấy dưới đây.
Thứ đến, cũng như trong dụ ngôn Chúa Nhật tuần trước có hai nhân vật – góa phụ và quan tòa – thì trong bức tranh hôm nay cũng có hai nhân vật: một bên là người Pha-ri-sêu, thành viên của một cộng đồng tôn giáo tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật. Học thuyết của họ là một trào lưu mang tính tu đức và nhân bản nhất của Do-thái giáo. Vào thời Đức Giê-su, phái Pha-ri-sêu được quần chúng kính trọng và “thu phục lòng dân” nhiều nhất – như cách nói hiện nay trong các cuộc thăm dò chính trị.
Bên kia, trong bóng tối của Đền Thờ, là một người thu thuế – kẻ thu tiền cho công quỹ. Ông là khuôn mặt bị dân chúng ghét bỏ vì cộng tác với quyền lực ngoại bang là đế quốc Rô-ma. Những người thu thuế và các cô gái điếm thường bị xếp chung trong hạng vô đạo đức, đáng khinh bỉ (trong tiếng Híp-ri có hàng chục từ khác nhau để chỉ họ!).
Rõ ràng Đức Giê-su đang khiêu khích cảm thức tự nhiên của thính giả: Người trình bày một cá nhân bị công luận coi là đáng khinh lại như một hình mẫu nên noi theo (hãy nghĩ đến dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu), và Người chọn đại diện của một phong trào tôn giáo được kính trọng nhất làm hình mẫu cần tránh. Lý do: chân dung thật của hai nhân vật này được bộc lộ qua lời cầu nguyện của họ.
1. Tự tin công chính, trở thành tội nhân
Người Pha-ri-sêu bắt đầu bằng một lời cầu nguyện hoàn hảo về mặt hình thức: nó chứa đựng danh sách những công đức của một đời sống ngay thẳng, chính trực và đáng trọng. Tuy nhiên, gốc rễ của lời cầu nguyện ấy lại nằm trong sự “công chính” do con người tự tạo ra.
Ông xác tín rằng mình đã “cân bằng sổ sách” với Thiên Chúa: ông nộp thuế thập phân đầy đủ, ăn chay không chỉ một lần mỗi tuần như luật định, mà là hai lần. Tóm lại, ông là hình mẫu của một người sùng đạo, tuân luật, hoàn hảo và tự tin. Cũng cần lưu ý rằng: một đàng ông chẳng xin gì nơi Thiên Chúa; đàng khác, ông tỏ ra khinh bỉ người thu thuế vì cho rằng mình không “tham lam, bất chính, ngoại tình”.
Rõ ràng, người Pha-ri-sêu – gắn bó với việc làm và niềm kiêu hãnh của mình – đã bị Thiên Chúa từ khước, bất chấp những biểu hiện “đạo đức” bên ngoài. Sự công chính của ông không được Thiên Chúa thừa nhận, vì ơn cứu độ đến từ đức tin, từ khiêm nhượng và từ tình yêu đón nhận hành động của Thiên Chúa.
Hồng ân cứu rỗi luôn lớn lao hơn công trạng của con người, nên không bao giờ có thể được coi như phần thưởng bắt buộc cho những gì ta làm được. Đây là một trong những chủ đề trung tâm của Tin Mừng Lu-ca và thần học Phao-lô. Để hiểu rõ lời Đức Giê-su được Lu-ca tường thuật, ta chỉ cần đọc lại:
“Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối.” (Lc 5,32)
“Các ông là những kẻ làm ra vẻ mình là người công chính trước mặt thiên hạ, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông: vì điều cao quý đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.” (Lc 16,15)
“Bấy giờ họ sẽ nói: ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ Nhưng Người sẽ đáp lại: ‘Ta không biết các ngươi từ đâu đến; hãy lui ra xa Ta, hỡi tất cả những kẻ làm điều gian ác!’” (Lc 13,26-27)
Đối với Đức Giê-su – cũng như đối với thánh Phao-lô trong Thư gửi tín hữu Rô-ma – con người đứng trước Thiên Chúa chẳng bao giờ là “công chính tự thân”, mà chỉ có thể là tội nhân được công chính hóa (được nên công chính nhờ ân sủng).
Người Ki-tô hữu không “tốt hơn” kẻ khác, như người đời vẫn nghĩ. Thật ra, Ki-tô hữu không “dễ thương” hơn, nhưng biết rằng mình “đáng thương” – là tội nhân được thứ tha và cứu độ.
Nhìn rộng ra, thế giới hôm nay dường như đầy rẫy những “tay Pha-ri-sêu” tưởng mình công chính. “Tội lỗi ư? Tôi chẳng biết!” – công thức ấy phản ánh khuynh hướng phổ biến của con người hiện đại: không muốn nhận lỗi, thậm chí còn tự biện minh rằng: “Tôi có làm gì sai đâu!” Có những chế độ, những tập thể từng phạm tội ác ghê gớm trong lịch sử, nhưng vẫn tự hào và chẳng bao giờ cúi đầu xin lỗi nhân loại!
2. Tự nhận tội nhân, được nên công chính
Hoàn toàn khác, thậm chí trái ngược hẳn, là lời cầu nguyện đơn sơ của người thu thuế – kẻ bị dân chúng ghét bỏ. Nó chỉ gói gọn trong một lời thú nhận chân thành:
“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18,13)
Ở đây, nền tảng của lời cầu nguyện thật rõ ràng: nó không dựa trên “sự công chính của con người” (vì chính ông nhìn nhận sự thiếu sót ấy), mà dựa vào ơn công chính hóa và cứu độ đến từ Thiên Chúa.
Thiên Chúa – trong tình yêu của Người – làm “lệch cán cân” thanh toán, bởi Người không phải là bạo chúa hay chủ nợ, nhưng là Người Cha hiền lành. Điều Người đòi hỏi nơi con người chỉ là lòng hoán cải.
Do đó, người thu thuế không phải là hình mẫu của kẻ sùng đạo, tuân luật, hay tự tin mình được rỗi; ông chỉ là người có đức tin khiêm tốn, biết chờ đợi Thiên Chúa thứ tha và cứu độ.
Thời đó, người Do-thái tin rằng Thiên Chúa yêu thương những người Pha-ri-sêu – hạng trong sạch, thánh thiện, tích cực – và kết án những người thu thuế – hạng vô đạo, bất chính. Nhưng Đức Giê-su lại mặc khải Thiên Chúa là “Cha của những kẻ lầm đường lạc lối”, Đấng “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45), Đấng “là bạn của những người thu thuế và phường tội lỗi” (Lc 7,34).
Vị Cha ấy âu yếm đón nhận đứa con hoang đàng (x. Lc 15); Đức Vua quảng đại ấy tha món nợ khổng lồ cho tên đầy tớ không thể trả nổi (x. Mt 18,27); Mục Tử nhân lành ấy vui mừng vì con chiên lạc được tìm thấy hơn là 99 con không lạc (x. Lc 15).
Vâng, Thiên Chúa yêu thương kẻ tội lỗi! Người là Đấng Tạo Hóa nhân lành, không đè bẹp nhưng nâng dậy, không phá hủy nhưng chữa lành. “Cây lau bị giập, Người không nỡ bẻ gãy; tim đèn còn leo lét, chẳng nỡ tắt đi.” (Mt 12,20) Thay vì kết án, Thiên Chúa thứ tha; thay vì trừng phạt, Người cứu độ.
Tóm lại, Thiên Chúa của Đức Giê-su ngỏ lời không phải với những người công chính, nhưng với các tội nhân – vì Người là Tình Yêu và Lòng Thương Xót.
Người được Thiên Chúa ưu ái chính là kẻ cần đến Người hơn cả. Như kinh nghiệm đời thường: đứa con đau yếu, tật nguyền, cần được mẹ chăm sóc nhiều hơn, lại chính là đứa khơi dậy tình yêu của mẹ hơn cả – vì nó không thể sống thiếu tình yêu ấy. Cũng vậy, Thiên Chúa không khinh bỉ kẻ tội lỗi, nhưng đau khổ cùng họ vì tội lỗi của họ.
Một câu chuyện Do-thái ngắn minh họa thế nào là lời cầu nguyện đích thực, nắm bắt được trọng tâm dụ ngôn Đức Giê-su – đó là lời cầu nguyện phó thác, ngợi khen, tạ ơn và thú tội trước Thiên Chúa.
Nhân vật chính là vua Đa-vít, sau khi phạm tội ngoại tình với Bát Sê-va và giết U-ri-gia, chồng bà. Ông đứng trước mặt Chúa và chỉ thưa: “Lạy Chúa, con đã phạm tội với Ngài.” (2 Sm 12,13)
Rồi ông im lặng – im lặng trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Tại sao ông im lặng? Người kể chuyện giải thích: vì ông giống như một kẻ nghèo đói, rách rưới, một ngày nọ được vào triều đình và diện kiến nhà vua. Khi đến gần ngai báu, ông chẳng nói gì, dù các cận thần thúc giục ông cầu xin. Quả thật, ông không cần lời nào, vì chính thân phận khốn khổ của ông đã là lời cầu xin mạnh mẽ nhất – mạnh hơn mọi ngôn từ.
Qua hai nhân vật trong dụ ngôn hôm nay, Đức Giê-su đặt trước mắt chúng ta hai thái độ đối nghịch:
Một bên là kẻ không cần Thiên Chúa, tự xây dựng đời mình bằng sức riêng;
Bên kia là người ý thức mình bất lực, khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa can thiệp: “Xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”
Nếu hiểu đúng tư tưởng của Đức Giê-su, có thể tóm lại như sau: “Hoặc anh muốn tự mình thu xếp cuộc sống – và cuối cùng anh sẽ thất bại;
Hoặc anh chấp nhận lệ thuộc Thiên Chúa – và anh sẽ được cứu độ và thành toàn.”
Thật đẹp và đầy ý nghĩa biết bao lời mở đầu của kinh xưng tội: “Lạy Cha, xin Cha thương xót con, vì con là kẻ có tội.”
Thiên Chúa đích thực của Đức Giê-su là như thế – Đấng làm phúc, Đấng cúi xuống để cứu độ. Và chúng ta, những người tội lỗi, vẫn được mời gọi đến với Người bằng lòng khiêm tốn và đức tin.
Nguồn tin: Lm. Phêrô Phan Văn Lợi
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Một phụ nữ nghèo ở Nghệ An thầm lặng chôn cất nhiều hài nhi xấu số
Lẽ Đời .
Công và quạ, con nào đẹp hơn?
Thành phố Mỹ có thể bị siêu động đất “hạt nhân” tách đôi.
Mười nguyên tắc thọ thêm nhiều tuổi.
Làm sao để hạnh phúc?
Little Saigon: 16 thủ khoa và á khoa Học Khu Garden Grove 2017 là gốc Việt
10 lý do chịu đau khổ
Người London dốc lòng cứu trợ cư dân trong vụ cháy chung cư
Thiền những hình ảnh đẹp