Câu hỏi đối với nhiều người không chấp nhận quan điểm của thánh nhân sẽ là: “Nói vậy thì tôi không phải là người hay sao?” Và “Tại sao để làm một thánh nhân thì tôi cần phải làm một con người trước?”
Điều đó đúng nếu ta chỉ quan niệm con người là một tạo vật có thân xác, có khối óc, có tài năng, biết làm giầu, biết hưởng thụ, thành đạt, và có quyền lực. Nhưng với những đặc điểm vừa kể thực ra chưa làm nên một người; nhất là một con người “tốt”, một con người “tử tế”.
Theo phân tâm học, con người được kết hợp rất mật thiết do ba yếu tố, gồm bản năng (Id), bản ngã (Ego) và siêu ngã (Superego). Bản năng, thôi thúc con người hành động theo những nhu cầu và đòi hỏi tự nhiên. Thí dụ, bản năng sinh tồn, mách bảo cho con người biết đói phải ăn, khát phải uống, và buồn ngủ thì phải ngủ. Trong khi bản ngã thể hiện cái tôi của mỗi người như nóng nảy, ích kỷ, quảng đại, tình cảm, hay đam mê… được quan sát thấy qua lãnh vực tâm lý. Sau cùng là siêu ngã. Từ nơi sâu thẳm và tầng cao của trí tuệ, của hiểu biết, con người biết phải ăn như thế nào, phải vui như thế nào, phải buồn như thế nào, và làm sao để sống, để suy nghĩ, để hành động đúng với tư cách, phẩm giá của một con người.
Khi ba yếu tố hay ba đặc tính căn bản ấy bổ túc cho nhau và phát triển đồng đều lúc đó con người sẽ trở thành một người. Một con người để qua đó, nó có thể trở thành người đàng hoàng, tử tế, lịch sự, biết phải trái, biết hòa đồng, biết sống chung với mọi người. Một con người tốt. Một con người mà những ai thường ngày giao tíếp, gặp gỡ đều quí mến, và cảm thấy từ nơi nó toát ra một sức hấp dẫn có thể chinh phục và cải hóa được ngay cả những cái xấu, cái bất toàn nơi họ. Những thánh nhân, những bậc quân tử, hay những người tốt đều có những sức thu hút và hấp dẫn này.
Khác với con người bản năng, con người bản ngã với cái tôi của mình. Một cái tôi biết vui, biết buồn, biết sướng, biết khổ, biết yêu, biết ghét, biết giận hờn. Ở điểm này, hành động con người bắt đầu tách rời và không lệ thuộc vào những đòi hỏi theo bản năng tức là những hành động chỉ thuộc về loài vật. Nơi tầng cao trong sinh hoạt tự nhiên ấy, đời sống tâm lý, tình cảm được thể hiện qua nụ cười, ánh mắt, bờ môi, qua những cử chỉ âu yếm, săn đón, và nhất là biết hy sinh cho người khác. Và cũng như con người bản năng, con người siêu ngã có thể làm chủ và điều khiển được con người “tâm lý” của mình. Đây là điều mà chỉ có con người với lý trí, hiểu biết mới có và mới có thể làm được, qua những chọn lựa hành vi nhân tính một cách tự do.
Nhưng làm sao để có thể kìm hãm được bản năng, thăng hoa được tình cảm, và phát triển được lý trí, nếu nó suy nghĩ, sống và hành động như một kẻ vô thần. Và vì thế, con người bắt buộc phải tiến đến sự hiểu biết và qui hướng về một Đấng Toàn Năng. Do sự nhận thức và hiểu biết này, con người biết mình phải làm gì, và làm như thế nào dựa theo những định luật của lương tâm, của niềm tin tôn giáo. Với những suy nghĩ tâm linh này, con người mới trở nên một tạo vật vượt trên mọi thụ tạo hữu hình, “Nhân linh ư vạn vật”.
Như vậy làm người không đơn giản, và không dễ dàng, nhất là làm người tốt, người đàng hoàng, tử tế, người đức hạnh. Vì những cái gọi là đàng hoàng, tử tế, và đạo đức ấy chính là những “nhân đức”, hay những hành động tốt được lập đi, lập lại trong nhiều hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống. Và đó là lý do tại sao phải “làm người” trước rồi mới “làm thánh”.
Thật ra, người đức hạnh, người đạo đức đã là một người tốt theo nghĩa tự nhiên. Họ chỉ cần siêu nhiên hóa đời sống của họ bằng một tâm tình qui hướng về Đấng Tối Cao, đồng thời vươn tới và phản chiếu tâm tình ấy qua việc đối xử nhân ái, công bằng, tôn trọng và phục vụ tốt với đồng loại. Được vậy họ chính là những thánh nhân trong cuộc đời này. Là những người rất đáng được tôn trọng dù họ không mang dáng vẻ đáng kính, nổi trội bằng những hành động lớn lao đi nữa. Theo Thánh Têrêsa Calcutta, chúng ta không có nhiều cơ hội làm những việc lớn lao, cao cả, nhưng chúng ta luôn có những cơ hội làm những việc tầm thường, nhỏ bé với tấm lòng và trái tim lớn lao, cao cả.
“Muốn làm thánh thì phải làm người trước đã”. Chúng ta ai cũng đã là người rồi, chỉ còn lại là người như thế nào. Đời sống thánh thiện không quá xa rời thực tế, không vượt quá sức con người, và cũng không phải là một lý tưởng trừu tượng. Sống thánh thiện, sống đạo đức, sống tốt lành là điều mà mọi người có thể làm được trong tin tưởng và cậy trông vào sức mạnh của Thiên Chúa, cùng với việc tận dụng tất cả những điều kiện đã có sẵn trong con người của chính mình. “Ông kia bà nọ nên thánh được tại sao tôi không được?” (Th. Augustine)
MUỐN LÀM THÁNH PHẢI LÀM NGƯỜI TRƯỚC ĐÃ
Trần Mỹ Duyệt
“Muốn làm thánh phải làm người trước đã” (Th. Gioan Bosco). Qua kinh nghiệm giáo dục, và với nhiệt tâm huấn luyện, chinh phục các thanh thiếu niên bụi đời quay về với cuộc sống đời thường, và cao hơn nữa, vươn tới lý tưởng thánh, thánh Gioan Bosco đã để lại một câu nói rất thực tế, nhưng cũng rất thách đố, đòi hỏi nhiều thiện chí và nghị lực của người nghe.
Câu hỏi đối với nhiều người không chấp nhận quan điểm của thánh nhân sẽ là: “Nói vậy thì tôi không phải là người hay sao?” Và “Tại sao để làm một thánh nhân thì tôi cần phải làm một con người trước?”
Điều đó đúng nếu ta chỉ quan niệm con người là một tạo vật có thân xác, có khối óc, có tài năng, biết làm giầu, biết hưởng thụ, thành đạt, và có quyền lực. Nhưng với những đặc điểm vừa kể thực ra chưa làm nên một người; nhất là một con người “tốt”, một con người “tử tế”.
Theo phân tâm học, con người được kết hợp rất mật thiết do ba yếu tố, gồm bản năng (Id), bản ngã (Ego) và siêu ngã (Superego). Bản năng, thôi thúc con người hành động theo những nhu cầu và đòi hỏi tự nhiên. Thí dụ, bản năng sinh tồn, mách bảo cho con người biết đói phải ăn, khát phải uống, và buồn ngủ thì phải ngủ. Trong khi bản ngã thể hiện cái tôi của mỗi người như nóng nảy, ích kỷ, quảng đại, tình cảm, hay đam mê… được quan sát thấy qua lãnh vực tâm lý. Sau cùng là siêu ngã. Từ nơi sâu thẳm và tầng cao của trí tuệ, của hiểu biết, con người biết phải ăn như thế nào, phải vui như thế nào, phải buồn như thế nào, và làm sao để sống, để suy nghĩ, để hành động đúng với tư cách, phẩm giá của một con người.
Khi ba yếu tố hay ba đặc tính căn bản ấy bổ túc cho nhau và phát triển đồng đều lúc đó con người sẽ trở thành một người. Một con người để qua đó, nó có thể trở thành người đàng hoàng, tử tế, lịch sự, biết phải trái, biết hòa đồng, biết sống chung với mọi người. Một con người tốt. Một con người mà những ai thường ngày giao tíếp, gặp gỡ đều quí mến, và cảm thấy từ nơi nó toát ra một sức hấp dẫn có thể chinh phục và cải hóa được ngay cả những cái xấu, cái bất toàn nơi họ. Những thánh nhân, những bậc quân tử, hay những người tốt đều có những sức thu hút và hấp dẫn này.
Khác với con người bản năng, con người bản ngã với cái tôi của mình. Một cái tôi biết vui, biết buồn, biết sướng, biết khổ, biết yêu, biết ghét, biết giận hờn. Ở điểm này, hành động con người bắt đầu tách rời và không lệ thuộc vào những đòi hỏi theo bản năng tức là những hành động chỉ thuộc về loài vật. Nơi tầng cao trong sinh hoạt tự nhiên ấy, đời sống tâm lý, tình cảm được thể hiện qua nụ cười, ánh mắt, bờ môi, qua những cử chỉ âu yếm, săn đón, và nhất là biết hy sinh cho người khác. Và cũng như con người bản năng, con người siêu ngã có thể làm chủ và điều khiển được con người “tâm lý” của mình. Đây là điều mà chỉ có con người với lý trí, hiểu biết mới có và mới có thể làm được, qua những chọn lựa hành vi nhân tính một cách tự do.
Nhưng làm sao để có thể kìm hãm được bản năng, thăng hoa được tình cảm, và phát triển được lý trí, nếu nó suy nghĩ, sống và hành động như một kẻ vô thần. Và vì thế, con người bắt buộc phải tiến đến sự hiểu biết và qui hướng về một Đấng Toàn Năng. Do sự nhận thức và hiểu biết này, con người biết mình phải làm gì, và làm như thế nào dựa theo những định luật của lương tâm, của niềm tin tôn giáo. Với những suy nghĩ tâm linh này, con người mới trở nên một tạo vật vượt trên mọi thụ tạo hữu hình, “Nhân linh ư vạn vật”.
Như vậy làm người không đơn giản, và không dễ dàng, nhất là làm người tốt, người đàng hoàng, tử tế, người đức hạnh. Vì những cái gọi là đàng hoàng, tử tế, và đạo đức ấy chính là những “nhân đức”, hay những hành động tốt được lập đi, lập lại trong nhiều hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống. Và đó là lý do tại sao phải “làm người” trước rồi mới “làm thánh”.
Thật ra, người đức hạnh, người đạo đức đã là một người tốt theo nghĩa tự nhiên. Họ chỉ cần siêu nhiên hóa đời sống của họ bằng một tâm tình qui hướng về Đấng Tối Cao, đồng thời vươn tới và phản chiếu tâm tình ấy qua việc đối xử nhân ái, công bằng, tôn trọng và phục vụ tốt với đồng loại. Được vậy họ chính là những thánh nhân trong cuộc đời này. Là những người rất đáng được tôn trọng dù họ không mang dáng vẻ đáng kính, nổi trội bằng những hành động lớn lao đi nữa. Theo Thánh Têrêsa Calcutta, chúng ta không có nhiều cơ hội làm những việc lớn lao, cao cả, nhưng chúng ta luôn có những cơ hội làm những việc tầm thường, nhỏ bé với tấm lòng và trái tim lớn lao, cao cả.
“Muốn làm thánh thì phải làm người trước đã”. Chúng ta ai cũng đã là người rồi, chỉ còn lại là người như thế nào. Đời sống thánh thiện không quá xa rời thực tế, không vượt quá sức con người, và cũng không phải là một lý tưởng trừu tượng. Sống thánh thiện, sống đạo đức, sống tốt lành là điều mà mọi người có thể làm được trong tin tưởng và cậy trông vào sức mạnh của Thiên Chúa, cùng với việc tận dụng tất cả những điều kiện đã có sẵn trong con người của chính mình. “Ông kia bà nọ nên thánh được tại sao tôi không được?” (Th. Augustine)
Tác giả bài viết: Yên Ba ,Trần Mỹ Duyệt
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn