Điều này có thể là một sự mô tả chấp nhận được đối với một số bức tranh trong hang đá. Tuy nhiên, các bức bích họa dưới đây dường như nằm ngoài phạm vi này.
Đây là một bức bích họa vẽ hình một con bò rừng được tìm thấy trong một hang đá tại Altamira, miền Bắc Tây Ban Nha. Người họa sĩ đã sử dụng bốn loại màu làm từ khoáng chất, loại màu không bị phai, và bức tranh trông vẫn tươi sáng dù đã trải qua 16.000 năm. Màu vẽ chứa sắt đã được sử dụng làm màu đỏ, vàng và nâu, trong khi hỗn hợp màu đen là ma-gê đi-ô-xít. Dường như những người thời đó đã sở hữu các kỹ năng vẽ tranh và tô màu thật tuyệt vời, cũng như họ đã có dụng cụ vẽ và tô màu tiên tiến.
Bức bích họa một con bò rừng được tìm thấy trong hang đá tại Altamira, miền Bắc Tây Ban Nha. Nguồn: M. Burkitt, Thời kỳ đồ đá cũ (1955)
Hang đá nằm tại vùng La Marche của nước Pháp đã được khám phá ra năm 1937 bởi Leon Pencard, một khoa học gia nghiệp dư người Pháp, và Sthane Lwoff, một nhà cổ sinh vật học. Họ đã mất 5 năm đào bới chiếc hang và đã tìm thấy hơn 1.500 mẩu đá đen có tranh vẽ khắc trên đó.
Những hình ảnh này rất khó để hiểu được. Thỉnh thoảng, một số vật thể trong bức tranh có thể chèn lên nhau. Tuy nhiên, trong con mắt của những nhà khảo cổ, các bức tranh này mang theo ý nghĩa đặc biệt. Ở trong hang La Marche, bạn có thể tìm thấy các bức vẽ sư tử, gấu, nai, ngựa và 155 bức chân dung người tuyệt đẹp.
Thực sự rất khó để liên tưởng những người trong bức chân dung với người nguyên thủy, bởi vì có sự tương đồng đến kinh ngạc giữa người đàn ông trong bức chân dung thời cổ đại và con người hiện đại. Trong cuốn sách mang tựa đề Human Iconography of the Magdalenian (Mô tả người Magdalenian), xuất bản năm 1940, Leon Pencard đã mô tả chi tiết chân dung người được khắc trên miếng đá đen mà ông tìm thấy [1]. Tuy nhiên, do phong cách nghệ thuật được sử dụng trong những bức họa đá này rất tương đồng với nghệ thuật hiện đại, người ta đã nhảy ngay sang kết luận rằng những bức bích họa này được làm bởi các họa sĩ hiện đại chứ không phải người tiền sử. Phải đến 60 năm sau khám phá đầu tiên này, các nhà khảo cổ mới bắt đầu xem xét lại ý tưởng này.
Trang bìa cuốn sách Human Iconography of the Magdalenian. Nền văn hóa Magdalenian là chỉ văn hóa tiền sử tại Pháp thời kỳ 10.000-15.000 năm trước Công nguyên.
Một bức bích họa đá vẽ một người đàn ông đội mũ. Đây là một trong những tác phẩm nghệ thuật tiền sử trong cuốn sách Human Iconography of the Magdalenian.
Khía cạnh đáng ngạc nhiên nhất của những bức chân dung này là người đàn ông trong tranh không quá khác so với con người ngày nay. Khám phá này là đối lập hẳn với hình ảnh tưởng tượng của chúng ta về con người nguyên thủy mang hình dáng vượn. Người đàn ông trong bức bích họa đá mặc trang phục tương tự người phương Tây thời Trung Cổ hay Hiện Đại. Người đàn ông trong bức tranh thứ 3 là một ví dụ tốt.
Bức vẽ bên dưới đây là một bức bích họa [2] được tìm thấy trong hang đá ở Les Trois Freres, Pyrenees, Pháp. Trong bức tranh, rất nhiều hình con ngựa và thú vật trùng lấp lên nhau thành nhiều lớp. Một số chúng được vẽ ngược. Quả thực rất khó để nói điều gì đã được vẽ trong bức tranh. Sau khi được xem xét kỹ càng bởi các chuyên gia, một hình hiệp sĩ đã được tìm thấy giữa rất nhiều con thú. Ống tay áo của anh ta được xắn lên. Anh ta mặc một chiếc áo vét, đeo thắt lưng rộng và đi một đôi bốt. Một con dao găm nằm trong bao được giắt nơi bốt bên trái của anh ta. Tay trái của người hiệp sĩ được đút trong túi quần. Mái tóc dài của anh ta như đang tung bay trong gió, và trông nó rất giống hình một con thú. Bằng cách nào người nguyên thủy ở cuối thời kỳ đồ đá cũ lại có thể vẽ được một bức tranh phức tạp như vậy? Làm sao họ có thể đeo bốt được?
Có một hiệp sĩ nằm giữa đám thú vật trong bức vẽ phức hợp này. (Hang Les Trois Freres, Pháp. Bản quyền thuộc về Jiri Mruzek)
Hiện nay, các nhà khoa học nghĩ rằng những người Cromagnon thuộc thời đại đồ đá mới ở Pháp hiểu về ngựa rõ hơn các chủng tộc khác trong cùng thời kỳ. Dựa trên bức vẽ hiệp sĩ, rõ ràng là hiểu biết về ngựa của họ không chỉ là bề mặt mà còn đạt tới mức độ thời Trung Cổ của văn minh loài người.
Một bức vẽ khác, về một cô gái, đã được phát hiện tại hang La Marche hoàn toàn là hình ảnh chiếc váy và cuộc sống của con người vào thời kỳ ấy. Cô gái trong bức tranh đang mặc như một thợ săn. Trên lưng cô là một chiếc áo choàng đang tung bay. Cô gái đội một cái mũ da, đi giày cao gót và dường như đang nhìn lên bầu trời. Tư thế của cô trông như thể cô đang cưỡi trên một con ngựa. Trên thực tế, có một con ngựa trong bức vẽ gốc. Nó rất khó để phân biệt trong bức tranh này.
Cô gái với chiếc áo choàng (Hang Les Trois Freres, Pháp. Bản quyền thuộc về Jiri Mruzek)
Một “nghệ sĩ vi-ô-lông đang nhảy múa” được khắc trên phiến đá
Một người Canada, ông Jiri Mruzek đã xem xét lại bức vẽ sau khi ông tìm thấy chỗ kỳ lạ này của tác phẩm nghệ thuật. Ông quay bức vẽ sang một góc khác và mô tả lại đường nét ở đầu người. Nó trở nên rõ ràng hơn là bức tranh thực sự là một người cảnh sát hay người lính, với một dùi cui ở một tay và tay kia chĩa khẩu súng trường vào chân, khiến anh ta trông giống như đang cảnh báo một người vô kỷ luật nào đó đừng hành động liều lĩnh.
Tại sao một khám phá đáng kinh ngạc như vậy lại chưa được biết đến nhiều tới tận ngày nay? Năm 1941, Lwoff đã trình bày khám phá của mình về các bức tranh ở La Marche cho Hội Tiền sử Pháp, nhưng ông đã không thành công khi thuyết phục những đồng nghiệp của mình rằng nhân loại tiền sử đã vẽ những bức tranh này. “Loại hình nghệ thuật này quá hiện đại, quá phức tạp, quá tốt”, họ nói, rồi tiếp tục: “Không thể hiểu được khi thứ nghệ thuật này lại là tác phẩm của những người nguyên thủy!” Họ tuyên bố rằng bức vẽ trên phiến đá đã được làm bởi con người hiện đại và cáo buộc Lwoff lừa đảo.
Đây thực ra là một màn diễn lại cảnh tượng trong Hội nghị về Văn hóa Tiền sử được tổ chức tại Lisbon năm 1880, khi các nhà khoa học nổi tiếng thời đó cáo buộc Don Marcelino de Sautuola đã thuê một họa sĩ đương đại vẽ những bức tranh trong hang, đồng thời tuyên bố rằng ông đã tìm thấy hang Altamira cùng đứa con gái 5 tuổi. Sautuola đã phải chịu đựng sự nhạo báng của công chúng cho tới khi qua đời. Trớ trêu thay, không lâu sau khi ông chết, giới hàn lâm đã chấp nhận rằng các bức họa trong hang Altamira đã được vẽ bởi con người từ 16.000 năm trước đây, và khôi phục lại danh tiếng cho người khám phá, Sautuola.
Thậm chí còn đáng hài lòng hơn, các nỗ lực của Lwoff và Léon Péricard, một nhà cổ sinh vật học nghiệp dư đã thuyết phục Lwoff tới thăm La Marche; và mặc dù cái hang đã bị làm ngơ và bỏ quên trong một thời gian dài, nó vẫn không vô dụng. Các bức họa trên phiến đá tại La Marche mới đây đã được tách ra để nghiên cứu. Năm 2002, tiến sĩ Michael Rappenglueck từ Đại học Munich, Đức đã thẩm định lại những bức họa trên đá này và xác nhận rằng chúng thực sự đã được làm bởi người tiền sử. Ông đã bắt đầu nghiên cứu sâu hơn
William J. Meister, một người Mỹ, là người thu thập hóa thạch nghiệp dư đầy khao khát, và đã tiến hành một khám phá kinh ngạc vào ngày 01 tháng Sáu năm 1968. Tại Antelope Springs, khoảng 43 dặm về phía Tây Bắc của Delta, tiểu bang Utah, một nơi giàu hóa thạch, Meister đã tìm thấy một tảng đá lớn với một vết chân người. Vết chân này, tuy nhiên, có vẻ như được tạo ra bởi một chiếc dép (xăng đan). Chiếc dép đo được 10 inch (khoảng 26 cm) chiều dài, lòng bàn chân rộng 3 inch (hay 8,9 cm) và gót chân có chiều rộng 3 inch (hay 7,6 cm). Gót chân có vẻ xấp xỉ 1/8 chiều dày (hay 1,7 cm). Ngạc nhiên thay, ông cũng tìm thấy Tam diệp trùng (bọ ba thùy) ngay trong dấu chân ấy.
Dấu chân tiền sử trên khối hóa thạch bọ ba thùy
Xin lưu ý rằng Tam diệp trùng là một loài sinh vật biển nhỏ, tồn tại trong khoảng từ 260 đến 600 triệu năm trước, và điều này là một dấu hiệu cho thấy khám phá này có giá trị đối với nguồn gốc của cuộc sống con người thời tiền sử. Phát hiện này rất có thể sẽ bác bỏ Thuyết Tiến hóa đang thịnh hành ngày nay.
So sánh khám phá này với giày dép của thời kỳ hiện nay, chúng ta có thể nhận thức được rằng một nền văn minh nào đó đã từng tồn tại khoảng 600 triệu năm trước, và nó phải có một độ phức tạp nhất định. Các hàm ý thực sự của phát hiện này chắc chắn là khó hiểu. Chẳng phải là các nhà sử học hiện đại nên cân nhắc lại Thuyết Tiến hóa hiện nay hay sao? Chẳng phải là những khám phá như vậy cho thấy một con đường khác của sự phát triển nhân loại hay sao?
Năm 1968, khối hóa thạch với dấu vết giày bên trên một Tam diệp trùng (bọ ba thùy), sinh vật tồn tại từ 600-260 triệu năm trước đã được khám phá bởi chuyên gia hóa thạch nghiệp dư Meister. (Ảnh được đăng với sự cho phép của Henry Johnson)
Trên thực tế, những mối nghi ngờ đã tồn tại trong Thuyết Tiến hóa hiện đại trong suốt thế kỷ 19. Tạp chí Khoa học Mỹ, trong các báo cáo ở tập 5 có đăng nhiều dấu chân hóa thạch được bảo quản rất đẹp, những dấu chân đã được phát hiện bên bờ sông Mississippi của St Louis, trong một khu vực giàu đá vôi, bởi một nhà thám hiểm người Pháp. Các nhà thám hiểm đã báo cáo rằng mỗi dấu chân hiện rõ các đường cong cơ thịt của lòng bàn chân con người. Những khám phá bổ sung được cung cấp trong tài liệu ở tập 7 (trang 364-367, 1885) của Tạp chí Nghiên cứu Di tích Văn hóa Cổ của Hoa Kỳ. Trên cùng bờ sông Mississippi, một dấu chân sâu 1 foot và dài 2 feet, có lẽ được tạo thành bởi một cuộn giấy, cũng đã được tìm thấy. Tất cả những phát hiện này đã được xác định niên đại bằng các kỹ thuật phân rã phóng xạ (tiếp theo 1885 – Sách đã dẫn) và được khám phá là có niên đại xấp xỉ 345 triệu năm. Những khám phá nhân chủng học như vậy đã mạnh mẽ đề xuất rằng cuộc sống con người đã có lâu hơn so với điều mà Thuyết Tiến hóa ngày nay chỉ ra. Hơn nữa, những phát hiện đó cho thấy rằng những nền văn minh loài người tương đương – hoặc tiến bộ hơn – xã hội ngày nay đã từng tồn tại hơn 100 triệu năm trước.
Các khám phá khảo cổ đáng kinh ngạc khác đã được báo cáo ở Mỹ. Năm 1927, một nhà địa chất học nghiệp dư đã tìm thấy, trong đá vôi thuộc kỷ Triat tại hẻm núi Fisher thuộc tiểu bang Nevada, một vết in của chiếc giày hóa thạch, ngạc nhiên thay, cũng có một gót chân bị gãy rời ra hoàn toàn. Phương pháp xác định niên đại bằng phóng xạ các-bon cho thấy nó có tuổi khoảng 225 triệu năm. Thật bất ngờ, khi di chỉ gần đây được xem xét lại thông qua kỹ thuật chụp ảnh qua kính hiển vi đã cho thấy phần da trên chân đế đã được khâu vào nhờ hai hàng len, chính xác là cách nhau 1/3 inch. Một kỹ thuật làm giày như vậy đã không hề tồn tại vào năm 1927. Hub Samuel, giám đốc danh dự Bảo tàng Khảo cổ tại Oakland, California, đã tuyên bố trong một quan điểm về phát hiện này rằng “Người thời đại hiện nay (năm 1927) trên trái đất còn chưa thể làm ra loại giày này. Việc nhìn vào loại chứng cứ này cho thấy rằng tại thời điểm mà được cho là của những động vật chân đốt còn chưa được khai hóa, từ hàng triệu năm trước, những người có trí thông minh cao dường như đã từng tồn tại … … ”
Hình ảnh phóng lớn của dấu vết giày với một Tam diệp trùng ở góc trên bên trái (Ảnh được đăng với sự cho phép của bảo tàng Creation Evidence)
Hai Tao, một chuyên gia hóa thạch nổi tiếng của Trung Quốc, đã tìm thấy một hóa thạch trông như một dấu giày của con người tại Núi Đỏ ở thành phố Urumqi, thuộc tỉnh Tân Cương, Trung Quốc. Hóa thạch này được xác định có niên đại khoảng 270 triệu năm về trước. Chiếc giày có chiều dài khoảng 26 cm, lớn hơn ở phần ngón chân và hẹp hơn ở phần gót chân. Một dấu vết in đường may gấp đôi cũng có thể quan sát được. Phía bên trái của giày in rõ ràng hơn phía bên phải, và độ sâu của vết in có vẻ nông ở giữa và sâu hơn về hai đoạn cuối, cho ấn tượng về một vết in của chiếc giày trái. Khi vết giày này được so sánh với một cái khác được tìm thấy tại hẻm núi Fisher ở Mỹ, nó đã được gọi là “huyền thoại Opatz” của Tân Cương (cho thấy rằng di chỉ này không phù hợp với thời kỳ địa chất). Giả thuyết của Hai Tao được trình bày trong Tạp chí Khoa học Địa chất (Journal of Geographic Science) rằng “huyền thoại Opatz” là một hiện tượng cho lý do để tin tưởng vào một đợt di trú lớn trong khoảng thời gian đó.
Cùng với những khám phá về dấu chân người có niên đại vài trăm triệu năm, cho đến những khám phá về cuộn giấy cổ xưa, cũng như các hóa thạch dấu chân khủng long, nhiều vết chân và vết giày hơn nữa đã được phát hiện trong những năm 1970 tại Thung lũng Carrizo ở Tây Bắc Oklahoma. Những dấu tích này xuất hiện trong cả sự hình thành Morrison lẫn đá sa thạch Dakota, chúng có niên đại khoảng 155 đến 100 triệu năm tuổi. Những dấu giày này được xác định rõ ràng hơn, và cho thấy người đeo chúng có kích thước cao hơn mức bình thường, với vết in trung bình dài 20 inch và 8 inch xương bánh chè. Những dấu chân trần bị ăn mòn một ít, nhưng cho thấy bằng chứng của dải áp lực xác định. Một số rất gần với dấu vết khủng long.
Nhưng những dấu chân không đúng chỗ cũng được tìm thấy tại các khu vực khác. Nhà nhân chủng học người Mỹ “, quyển IX (1896), trang 66, mô tả các phát hiện của một dấu vết con người hoàn hảo in trong đá khoảng 4 dặm về phía Bắc của Parkersburg, ở bờ Tây Virginia của sông Ohio. Dấu tích dài 14 1/2 inch và được in vào trong một tảng đá lớn. Mặc dù vài đặc điểm đã được đưa ra, một chuyên gia đã tính toán từ loại đá được mô tả, từ vị trí của nó trên bờ sông, và thấy rằng dấu tích phải có ít nhất 150 triệu năm tuổi, theo cách xác định niên đại địa chất hiện đại. Những dấu vết người khổng lồ như vậy cũng được tìm thấy trong các nơi khác. Dấu chân dài 14 inch đã được tìm thấy ở Virginia. Vết tích người khổng lồ với mỗi dấu chân dài khoảng 35 inch đã được tìm thấy trong đá sa thạch ở Kansas. Kích thước của những dấu chân này lớn hơn nhiều so với dấu chân của con người ngày nay, và tất cả các dấu chân đều có 1 triệu năm tuổi.
Với những phát hiện về các dấu chân này, đã là đủ để đặt dấu hỏi cho toàn bộ Thuyết Tiến hóa của Darwin, và cách mạng hóa các quan điểm hiện thời về lịch sử sinh học. Thậm chí còn đáng ngạc nhiên hơn nữa, đó là các nhà khoa học đã khám phá ra các di chỉ với hơn vài trăm triệu năm tuổi, những thứ đã tiết lộ công nghệ tiên tiến và nền văn minh của nhân loại vào thời điểm đó.
Trong chương kế tiếp, chúng tôi sẽ giới thiệu một số phát hiện khảo cổ học của các công nghệ cổ đại.
Vào tháng 6 năm 1851, Tạp chí Scientific American (quyển 7, trang 298-299), đã đăng một bài viết từ đoạn sao lục ở Boston, trong đó công bố về hai phần của một chiếc bình kim loại được tìm thấy sau khi cho nổ một khối đá cứng tại Meeting House Hill ở Dorchester, Massachusetts. Khi hai phần của chiếc bình được ghép lại, nó tạo thành một chiếc bình hình chuông có chiều cao khoảng 4 ½ inch, 6 ½ inch ở đáy, 2 ½ inch trên đỉnh, và dày khoảng 1/8 inch. Phần vỏ kim loại của bình được cấu tạo bởi thứ hợp kim giữa kẽm và một phần lớn của bạc. Trên vỏ bình có sáu bó hoa khảm bằng bạc tinh khiết, và xung quanh phần bên dưới là môt cành nho hoặc vòng hoa cũng được khảm bằng bạc. Công việc chế tác, khắc, và khảm một cách tinh xảo này đã được thực hiện bởi một vài nghệ nhân không tên tuổi. Và điều đặc biệt là nó đã được tìm thấy dưới một khối đá lớn (một dạng đá trầm tích) ở độ sâu 15 feet dưới mặt đất. Niên đại được ước tính là khoảng 100.000 năm tuổi. Chiếc bình này đã được chuyển từ viện bảo tàng này sang viện bảo tàng khác để trưng bày, và cuối cùng thật không may, nó đã bị biến mất.
[Giá đỡ nến?]
Tạp chí Scientific American vào tháng 6 năm 1851 đã công bố một bài báo về chiếc bình kim loại được tìm thấy dưới một khối đá cứng tại Meeting House Hill, Dorchester, Massachussets. Khối đá bao bọc chiếc bình được ước tính khoảng 100.000 năm tuổi.
Vào ngày 13 tháng 2 năm 1961, ba nhà khảo cổ học – Mike Mikesell, Wallace Lance, và Virginia Maxey – đã thu thập đá hốc tinh ở một địa điểm cách phía đông-nam Olancha, California khoảng 12 dặm. Đá hốc tinh (Geode – đá từ núi lửa) là một loại đá dạng cầu rỗng ruột với cấu trúc dạng tinh thể. Trong ngày đặc biệt đó, khi đang tìm kiếm tại dãy núi Coso, họ đã tìm thấy một hòn đá nằm ngay gần đỉnh núi có độ cao khoảng 4.300 feet so với mực nước biển và 340 feet trên đáy hồ Owens. Họ nhặt nó lên và cứ nghĩ rằng đó là một loại đá hốc tinh, nhưng sau đó họ phát hiện ra rằng không phải, bởi vì nó mang dấu vết của vỏ hóa thạch.
Ngày hôm sau, khi Mikesell cắt một nửa hòn đá đó ra, ông gần như đã phá hỏng viên kim cương 10 inch khi cưa nó, hòn đá không hề có cấu trúc tinh thể mà là một thứ gì đó thật bất ngờ. Bên trong đó là một loại thiết bị cơ khí gì đó. Bên dưới lớp đất sét cứng ngoài cùng, sỏi và hóa thạch là một lớp hình lục giác được cấu tạo bằng gỗ mềm dạng mã não hoặc thạch anh. Một lớp vỏ cứng bao quanh lõi hình trụ, có đường kính khoảng ¾ inch, được làm từ gốm hoặc sứ đặc màu trắng. Ở trung tâm của lõi trụ là thanh kim loại rộng khoảng 2 mm, sáng bóng và có mạ đồng. Thanh trụ này, các nhà địa chất đã phát hiện ra rằng đó là một dạng có từ tính, và sau rất nhiều năm bị phơi ngoài không khí, nhưng nó không hề có dấu hiệu của sự oxy-hóa. Đồng thời, bao quanh ống trụ bằng men sứ là những chiếc vòng đồng đã bị ăn mòn. Bị gắn sâu vào trong đá, ngoài chiếc ống trụ kia, còn có thêm hai mẫu vật nữa giống như là một chiếc đinh và một chiếc máy giặt.
Các nhà địa chất đã gửi những gì họ tìm thấy tới Hội C-harles Fort, nơi chuyên nghiên cứu những điều khác thường. Hội này đã dùng tia-X chiếu vào vật thể hình trụ kia để nghiên cứu các hóa thạch trong đó, và phát hiện ra những chứng cứ để xác nhận rằng đó thực sự là một thiết bị cơ khí. Tia-X đã cho thấy thanh kim loại bên trong kia đã bị ăn mòn ở một đầu, nhưng đầu còn lại có thể được làm từ một thứ vật chất dạng kim loại xoắn. Tóm lại, “đồ tạo tác ở Coso” được tin là một phần của thứ gì đó giống một chiếc máy cơ khí. Phần trục bằng sứ và kim loại được tạo hình cẩn thận này, với những thành phần được làm bằng đồng, gợi ý rằng nó là một dạng thiết bị điện nào đó. So sánh với những thiết bị hiện đại, các nhà nghiên cứu cho rằng nó rất giống một dạng bu-gi đánh lửa. Tuy nhiên, phần đường cong bằng kim loại thì không giống với bất cứ loại bu-gi nào hiện nay. Một nhà địa chất chuyên nghiệp đã kiểm tra mẫu đá trong thiết bị và thấy rằng nó có niên đại vào khoảng 500.000 năm tuổi.
Tờ Illinois Springfield Republican đưa tin vào năm 1851: Một doanh nhân tên là Hiram de Witt đã mua lại một mảnh thạch anh chứa vàng có kích thước khoảng bằng bàn tay của một người đàn ông sau chuyến đi tới California, và trong khi cho người bạn xem mảnh đá, nó đã bị trượt từ tay của ông và rơi xuống sàn nhà. Khi đó, ở giữa của miếng thạch anh để lộ ra là một chiếc đinh gẫy, có kích thước của đồng 6 penny, đã bị ăn mòn nhẹ, nhưng hoàn toàn thẳng và có một chiếc đầu đinh hoàn hảo. Miếng thạch anh này có niên đại hơn 1 triệu năm tuổi.
Năm 1865, một chiếc đinh vít kim loại dài 2 inch đã được tìm thấy trong một mẫu khoáng vật được khai quật từ các mỏ vàng ở thành phố Treasure, Neveda. Chiếc đinh vít đã bị oxy-hóa từ lâu nhưng vẫn giữ nguyên được hình dạng – đặc biệt là hình dạng các đường xoắn của nó – có thể nhìn rất rõ từ mẫu khoáng vật. Mẫu vật này được ước tính có niên đại khoảng 21 triệu năm tuổi.
Năm 1844, Ngài David Brewster đã gửi một báo cáo tới Hiệp hội Tiến bộ Khoa học Anh quốc, và gây ra một chấn động trong giới khoa học. Một chiếc móng, rõ ràng là nhân tạo, đã được tìm thấy với một nửa bị gắn sâu vào một khối đá sa thạch được khai thác từ khu mỏ Kindgoodie gần Inchyra, miền Bắc nước Anh. Nó đã bị ăn mòn rất nhiều, nhưng dù sao vẫn nhận dạng được. Miếng sa thạch này được xác định có niên đại ít nhất 40 triệu năm tuổi.
Vào ngày 9 tháng 6 năm 1891, bà S.W.Culp tại Morrisonvile, Illinois, khi đang xúc than cho vào bếp lò thì một cục than lớn vỡ thành hai mảnh và một sợi dây chuyền vàng ở chính giữa đã rơi ra. Sợi dây chuyền dài khoảng 10 inch, làm bằng vàng 8 carat và nặng cỡ 8 đồng xu penny, được mô tả giống như một dạng “đồ cổ tinh xảo”. Vào ngày 11 tháng 6, thời báo Morrisonvile Times loan tin các nhà điều tra đã chứng minh rằng sợi dây chuyền không chỉ đơn giản là tình cờ rơi vào than. Một phần của than đã bám vào sợi dây chuyền, trong khi phần bị tách rời khỏi nó vẫn mang dấu ấn của chỗ mà sợi dây chuyền đã bị bọc. Tờ báo chỉ nói: “Đây là một thứ dành cho những sinh viên thuộc ngành khảo cổ học, những người muốn bị mệt đầu bởi sự cấu thành địa chất của Trái đất, và luôn tò mò về những điều cổ xưa”. Trong trường hợp này, vật “gây tò mò” bị “rơi ra” từ một viên than đá có từ Kỷ Pennsylvanian – và nó đã có hơn 300 triệu năm tuổi.
Một khám phá tương tự đã xảy ra tại Oklahoma. Vào năm 1912, hai nhân viên của Nhà máy điện Thành phố Thomas, Oklahoma, khi đang xúc than cho vào lò, đã sử dụng nhiên liệu được khai thác gần Wilberton. Có một khúc than quá lớn và không thể cầm được, cho nên hai người thợ đã dùng búa để đập nó ra. Khi khúc than vừa bị vỡ, hai người thợ đã nhìn thấy một chiếc nồi sắt trong đó. Khi chiếc nồi rơi ra từ khúc than, khuôn của nồi có thể nhìn thấy từ các mảnh của khúc than. Vài chuyên gia sau đó đã kiểm tra than bao quanh nồi, và xác định rằng nó đã được hình thành từ 300 tới 325 triệu năm trước.
Vào năm 1912, hai nhân viên của Nhà máy điện Thành phố Thomas, Oklahoma đã phát hiện ra một chiếc nồi sắt nằm bên trong một khúc than có niên đại từ 300 tới 325 triệu năm tuổi.
(Ảnh chụp bởi: Viện Bảo tàng Bằng chứng Tạo hóa)
Những người thợ mỏ tại Klerksdorp ở Nam Phi đã tìm thấy vài trăm quả cầu kim loại ở trong cùng một tầng vỏ trái đất, với niên đại ước tính tới 2,8 tỉ năm tuổi. Những quả cầu này được khắc các rãnh rất mịn, mà các chuyên gia kết luận rằng chúng không thể được hình thành từ một quá trình tự nhiên.
Các quả cầu kim loại giống như thế này đã được tìm thấy ở Nam Phi, trong cùng môt tầng vỏ trái đất, với niên đại ước tính tới 2,8 tỉ năm tuổi (Ảnh chụp bởi Roelf Marx)
Sau đây là một vài khám phá mà các nhà khảo cổ học cho phép chúng ta hiểu thêm về nền văn minh tiền sử. Những khám phá này như là những cánh cửa sổ nhìn vào quá khứ, cho phép chúng ta quan sát được hoạt động khai mỏ, tinh chế kim loại, và tạo ra các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của người tiền sử.
Năm 1968, Tiến sĩ Koriun Megurtchian người Liên Xô cũ đã khai quật được một di tích, được cho là nhà máy luyện kim cỡ lớn lâu đời nhất trên thế giới, tại địa điểm có tên là Medzamor ở nước cộng hòa Armenia (thuộc Liên Xô cũ). Hơn 4.500 năm trước, những người tiền sử vô danh làm việc tại đó đã có hơn 200 lò nung để sản xuất các loại dụng cụ như lọ, dao, mũi giáo, nhẫn, vòng đeo tay, và một số vật dụng khác. Các thợ thủ công ở Medzamor đeo khẩu trang và đi găng tay khi họ lao động, và những bộ quần áo chuyên dụng của họ được làm bằng đồng, chì, kẽm, sắt, vàng, thiếc, măng-gan và mười bốn loại hợp kim đồng khác. Các lò nung cũng sản xuất một loại sơn kim loại, gạch men và thủy tinh. Các tổ chức khoa học từ Liên Xô, Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Đức đã xác nhận rằng một số chiếc kẹp làm bằng thép cao cấp đã được lấy từ các lớp địa chất từ trước thiên niên kỷ thứ I trước Công nguyên.
Vào tháng 7 năm 1969, trên tờ Science et Vie, một phóng viên người Pháp tên là Jean Vidal đã bày tỏ niềm tin rằng những phát hiện này đã chỉ ra một giai đoạn phát triển công nghệ không được biết tới. “Medzamor” ông viết, “đã được thành lập bởi những người xuất chúng của các nền văn minh trước đây. Họ sở hữu những kiến thức có được từ thời xa xưa mà chúng ta không biết tới, và xứng đáng được gọi là ‘khoa học’ và ‘công nghiệp’.”
Ngoài ra, các nhà khảo cổ học người Mỹ đã phát hiện ra những mỏ đồng thời tiền sử tại Isle Royale ở phía bắc Michigan. Thậm chí cả những người thổ dân da đỏ có tổ tiên sống trong vùng đó từ nhiều thế kỷ trước cũng không biết về sự tồn tại của những mỏ này. Những khu mỏ đó đã chứng minh rằng các hoạt động khai mỏ thời tiền sử đã từng tạo ra hàng nghìn tấn đồng, nhưng các nhà khảo cổ học đã không tìm thấy bất kỳ dấu vết định cư lâu dài nào gần các khu mỏ.
Khám phá kỳ lạ nhất là mỏ than Lion tại tiểu bang Utah. Năm 1953, những người thợ mỏ bất ngờ phát hiện ra một đường hầm trong mỏ mà họ chưa từng biết tới. Than trong hầm mỏ đã bị oxy-hóa và mất hết giá trị thương mại – bằng chứng cho thấy hoạt động khai thác mỏ trước đó đã từng được tiến hành trong khu vực này. Vào tháng 8 năm 1953, hai học giả thuộc Khoa Kỹ sư và Nhân chủng học Cổ đại tại Đại học Utah đã điều tra khu mỏ, và tuyên bố rằng những người thổ dân da đỏ ở đây chưa bao giờ sử dụng than. Cả hai mỏ, mỏ đồng tại Isle Royale và mỏ than tại Lion đã chứng minh rằng các thợ mỏ tiền sử đã phát triển các công nghệ khai thác và vận chuyển than tới những nơi xa xôi. [Ban biên tập đã không tìm thấy bằng chứng độc lập xác nhận sự tồn tại của hai mỏ này].
Có một khu vực của các hoạt động khai thác mỏ tiền sử mà các nhà địa chất và nhân chủng học đã cực kỳ quan tâm, nó được phát hiện trong các vỉa đá tại mỏ Pioch Farrus ở Pháp. Từ năm 1786 tới 1788, mỏ đá đã cung cấp một lượng lớn đá vôi để xây dựng lại một tòa nhà Tư Pháp ở địa phương. Thông thường, các thợ mỏ sẽ tìm thấy một lớp bùn nằm giữa các lớp đá. Khi những người thợ mỏ đào đến lớp thứ 11 của đá, tiếp cận độ sâu 12 tới 15 mét dưới lòng đất, thì một lớp bùn đã xuất hiện. Nhưng khi làm sạch lớp bùn này, thì họ đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra các cọc còn lại của những cột đá và những mảnh vỡ, cho thấy rằng đá này đã được cắt và khai thác thác từ trước đó. Đào sâu hơn, họ đã choáng váng khi phát hiện ra tiền xu, tay cầm bằng gỗ của một chiếc búa sắt đã hóa thạch, và các công cụ bằng gỗ khác đã hóa đá. Cuối cùng, họ phát hiện ra một tấm ván đã hóa đá và bị vỡ thành từng mảnh. Sau khi các mảnh vỡ được ghép lại với nhau, nó đã thể hiện chính xác loại ván đã được sử dụng bởi các thợ mỏ; hơn thế nữa, loại ván này chính xác là giống với loại ván đang được sử dụng ngày nay.
Đã có rất nhiều khám phá tương tự trong các khu mỏ tiền sử, và rất nhiều di tích bí ẩn khác đã được khai quật. Nó không chỉ làm dấy lên sự tò mò của con người, mà còn gửi một thông điệp quan trọng tới những nhà khảo cổ học – đây là lúc để đẩy nguồn gốc của nền văn minh nhân loại về một thời kỳ vô cùng xa xưa
Một tảng đá ở Viện bảo tàng tư nhân của Tiến sĩ Javier Cabrera tại Peru với hình khắc, trong đó một người đàn ông quan sát bầu trời với một kính thiên văn, thứ thường được tin là được phát minh bởi những nhà sản xuất kính đeo mắt Hà Lan. (Ảnh tặng củalabyrinthina.com)
Tiến sĩ Javier Cabrera ở Peru đã thu thập nhiều loại đá khắc như vậy. Ngoài thiên văn học, những đề tài của các bức tranh trên đá của ông bao gồm cấy ghép nội tạng, truyền máu, và săn khủng long, trong số nhiều thứ khác. Rất khó khăn để xác định tuổi của những miếng đá này. Một cuốn lịch sử niên đại của Tây Ban Nha từng đề cập rằng những miếng đá như vậy đã được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ của Đế chế Inca. Từ đó, người ta suy luận rằng những tảng đá chứa thông tin thiên văn học có ít nhất 500 năm tuổi. Nói một cách lô-gíc, những tảng đá miêu tả các sinh vật như loài khủng long có thể là cổ hơn rất nhiều so với niềm tin ban đầu.
Nếu thực sự đó là một kính thiên văn đã được khắc trên tảng đá tại Viện bảo tàng ICA, và các thiết bị đó đã được phổ biến trên toàn cầu, thì điều này có thể giúp các nhà khoa học để hiểu lý do tại sao Dogon, một bộ lạc ở châu Phi, đã phát triển những kiến thức thiên văn học tiên tiến như vậy. Bộ lạc Dogon sống ở khúc quanh lớn của sông Niger tại miền nam Mali, miền tây Châu Phi. Họ sống một cuộc sống chủ yếu là nông thôn và du mục. Không có ngôn ngữ viết, họ truyền đạt kiến thức bằng miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong học thuyết tôn giáo của họ, mà đã được truyền lại trong hơn 400 năm, các nhà thiên văn học đã gọi một ngôi sao là Sirius B, một ngôi sao đồng hành của Sirius, đã được mô tả chính xác. Điều này làm ngạc nhiên những nhà thiên văn học hiện đại.
Sirius B là rất mờ nhạt và vô hình trước mắt của con người. Dựa trên các quan sát ghi lại được bằng cách sử dụng thiết bị hiện đại, các nhà thiên văn đã phát hiện ra Sirius B trong thế kỷ 19. Những người Dogon được cho là đã không hề sở hữu bất kỳ thiết bị công nghệ hiện đại nào, nhưng từ thế hệ này qua thế hệ khác, họ đã truyền lại những truyền thuyết về Sirius, trong đó bao gồm việc đề cập đến hệ thống Sirius gồm hai ngôi sao. Theo truyền thuyết, ngôi sao nhỏ là rất nặng, và nó quay quanh ngôi sao Sirius theo một quỹ đạo hình elip. Một số người cao tuổi Dogon có thể vẽ quỹ đạo của hai ngôi sao trên mặt đất, và chúng khá tương tự như kết quả tính toán của các nhà thiên văn học hiện đại. Ví dụ này có thể chỉ ra rằng những người Dogon cổ đại đã giữ lại kiến thức của thiên văn học từ rất lâu.
Các mẫu chạm khắc đá ở Peru, giống như các kiến thức thiên văn của người Dogon, hé lộ về kiến thức và kỹ thuật huyền bí mà các nền văn minh trước đây sở hữu. Khoa học hiện đại chỉ có thể khám phá lại kiến thức thu được từ trước đó. Hãy nhìn vào một vài phương thức bay mà người cổ đại đã biết.
Sử dụng máy bay
Các sách Trung Quốc cổ đại ghi lại rằng trong thời Xuân Thu (770-475 TCN), Lỗ Ban đã tạo ra máy bay. Điều này dẫn đến việc Lỗ Ban được công nhận là cha đẻ của tất cả các nghề thủ công. Cuốn Mozi·Luwen viết: “Lỗ Ban cắt tre và gỗ, và làm một con chim bằng gỗ. Nó ở lại trên bầu trời trong vòng ba ngày.” Lỗ Ban cũng đã làm một chiếc diều gỗ lớn để do thám quân địch trong một cuộc chiến tranh. Cuốn Hongshu viết: “Lỗ Ban đã làm một chiếc diều gỗ để do thám các thành phố ở nước Tống.” Bên cạnh đó, Lỗ Ban đã làm một chiếc máy bay chở khách. Theo cuốn Youyang Zazu [Một bộ sưu tập các bài viết từ Youyang] trong thời nhà Đường, Lỗ Ban có một lần làm việc ở một nơi rất xa quê mình. Ông nhớ vợ mình rất nhiều, vì vậy ông đã làm một con chim bằng gỗ. Sau khi được thiết kế lại nhiều lần, chiếc diều làm bằng gỗ đã có thể bay được. Lỗ Ban trở về nhà bằng chiếc diều để gặp vợ và trở lại làm việc vào ngày hôm sau.
Tác giả bài viết: Thanh Nguyen
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn