Tình cờ đọc được một trang trong cuốn The Sympathizer của nhà văn gốc Việt từng được giải thưởng Pulitzer năm 2016 Nguyễn Thanh Việt – dòng tâm sự được đặt bút với câu hỏi “Điều gì khiến bạn cảm thấy thực sự là người Việt?”, tôi nhớ một đoạn lược ngắn của câu chuyện như sau.
“…Tôi đến một cửa hàng, hình như đó là một hiệu thuốc. Có một người đàn ông gốc Á ngồi cạnh tôi, có lẽ ông ấy là người Việt Nam. Tôi có thể nhìn ai đó và đoán “Bạn chắc hẳn là người Việt”. Ông ấy gọi điện thoại cho con của mình và nói chuyện bằng tiếng Việt. Ông nói: Con ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa?…
Nếu như bạn không biết tiếng Việt, câu của ông ấy dịch ra chỉ đơn giản là “Hello, child. This is your father. Have you eaten yet? Have you eaten rice yet? Câu đó chẳng có nghĩa gì quá to lớn trong tiếng Anh nhưng với tiếng Việt, nó chất chứa mọi điều. Con ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa? Có những điều trong tiếng Việt chất đầy cảm xúc và tôi đã lớn lên cùng những điều đó.
Khi nghe thấy, tôi gần như bật khóc. Và đó là lúc tôi biết mình là người Việt Nam… Lịch sử có ý nghĩa lớn lao với tôi, văn hóa Việt Nam ăn sâu vào tâm thức tôi, kể cả tiếng Việt của tôi không sõi, tôi vẫn cảm thấy gắn kết với Việt Nam…
Có nhiều cách để ai đó nhận ra mình là người Việt Nam, cũng như nhận ra mình là người Pháp, người Mỹ. Chừng nào tôi vẫn nhận ra mình là người Việt Nam, trái tim vẫn thổn thức vì những điều quá đỗi Việt Nam, tôi vẫn là người Việt Nam. Đó chính là lúc, tôi nhận ra con người Việt Nam trong mình”.
Mắt tôi nhòa đi, rưng rưng trong câu chuyện ngắn của Nguyễn Thanh Việt. Ngôn ngữ là nền tảng của văn hóa và chỉ với tiếng Việt, tôi thấy tình cảm gia đình, những thứ cảm xúc gần gũi, giản đơn mà dạt dào ấy được bồi đắp trong từng câu nói đời thường. Thế hệ chúng tôi lớn lên cùng tiếng Anh, tiếng Pháp, trau dồi thêm bao thứ ngôn ngữ Nhật, Trung, Hàn, các hệ chữ latin hay ký tự nhưng nếu ai hỏi “have you eaten yet?”, tôi chỉ biết đáp rồi hay chưa.
Chúng tôi lớn lên cùng thứ ngôn ngữ mà câu hỏi không chỉ để hỏi – đó là lời chào, sự động viên, tình cảm hay quan tâm chân thành. Tiếng Việt của chúng tôi không chỉ là công cụ giao tiếp, đó là một tín hiệu của sự thân thuộc, của quê hương, của “nhà” giữa nơi xa lạ.
Lần đầu tiên tới châu Âu khi 18 tuổi, cô bạn tôi lo lắng khi không tìm được đường từ trạm chờ xe bus về nhà. Tuyết càng rơi, trạm chờ xe bus vắng lặng con bé càng sợ; đến khi có một người phụ nữ bước tới, hỏi nó bằng thứ tiếng Việt đặc sệt như mấy Việt Kiều nó thấy trên tivi “Con ơi, con bị lạc đường à?”, con bé ôm chầm và òa khóc, tiếng khóc rất đỗi Việt Nam.
“Lúc ấy tao không mảy may nghĩ tới người phụ nữ ấy có phải người xấu hay không, cũng không khóc vì quá sợ hãi. Nhưng tao bỗng nhớ nhà, nhớ Việt Nam quá khi cô ấy hỏi bằng tiếng Việt. Chừng nào một câu tiếng Việt còn khiến tao khóc ngon lành hay cười vui khi chợt nghe thấy trên tàu điện, lúc đó tao còn biết rõ, dù có ở đây bao lâu, đất nước này cũng không phải quê mình. Việt Nam là nhà, mày ạ”.
Tôi nhớ lại câu thơ của Lưu Quang Vũ, tiếng thơ hiếm hoi ngợi ca tiếng Việt: “Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi/ Như vị muối chung lòng biển mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời…” Chừng nào từng câu từ, con chữ trong tiếng Việt còn khiến người ta rung động thì tình yêu đó cho tiếng Việt cứ âm thầm theo thời gian. Bởi vì trong tiếng Việt, có những câu từ của cảm xúc chẳng thể cắt nghĩa trọn vẹn sang một ngôn ngữ khác.
Tôi gặp Khôi khi cậu về nước cách đây một năm và ra Hà Nội. Theo bố mẹ qua Mỹ từ năm 6 tuổi, số lần Khôi về Việt Nam chắc chỉ được dăm ba lần. Ký ức Sài Gòn trong cậu có lẽ dần phôi phai, mang theo cả câu từ bập bẹ của trẻ lên sáu. Khôi kể dù ở nhà ba mẹ vẫn nói tiếng Việt, cậu đã quen với việc giao tiếp tiếng Anh với bạn bè và tiếng Việt dần thành một thứ ngôn ngữ xa lạ.
Tốt nghiệp đại học, cậu quyết định rời Mỹ một thời gian, về Việt Nam 3 tháng thực tập trong một công ty kiến trúc quốc tế có trụ sở ở Sài Gòn. Rồi Sài Gòn cũng đem đến cho cậu một tình yêu chớm nở, không phải đầu đời nhưng rung động đậm chất Á Đông, một cô gái Việt Nam bình thường nhưng với cậu ấy lại vô cùng lạ lẫm. Ngày Khôi rời Sài Gòn, cô gái nhắn cho anh một dòng tin nhắn: “Khôi ơi, anh có thương em không?”.
“Anh thương”, anh biết rằng mình sẽ phải về Việt Nam lần nữa.
“Lúc đó, em không biết thương là gì, trong tiếng Anh có Love là yêu, Like là thích, còn thương ra sao? Nhưng có gì đó trong em biết rằng, em cũng thương cô ấy, một thứ tình cảm thuần Việt mà chỉ có tiếng Việt mới giúp em nói hết được. “Thương” và “Ơi” – 2 từ em có cố gắng cả đời cũng không dịch ra được. Dù đi từ 6 tuổi hay 1 tuổi, em vẫn nghĩ mình là người Việt khi cảm nhận được hết những điều ấy”, cậu ấy từng kể với tôi. Kỳ diệu làm sao khi người ta bỗng nhận ra “danh tính” của bản thân chỉ qua vài từ giản đơn.
Từng có lúc, tôi nghĩ sẽ muốn đi tới một nước xa xôi, đi đâu khỏi nhà thật xa để biết rằng nhớ nhà là như thế nào, rằng có nhớ bố mẹ nhiều thế không. Hôm đó là gần Giáng sinh, 22/12. Hai tuần cho một hội nghị sinh viên cũng kết thúc, chúng tôi chuẩn bị ra sân bay Suvarnabhumi về Hà Nội. “Đáng nhẽ không bao giờ nên bay vào lúc 5-6h chiều”, tôi lẩm bẩm, chiều buông một màu ảm đạm. Chẳng nói được gì với anh tài xế nên chỉ ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ. Tắc đường, nhưng còn sớm nên không lo. Thấy cái không khí cũng ngột ngạt quá, dòng xe thì còn dài dài, anh tài xế hỏi vài câu cho vơi bớt cái khoảng lặng trên xe.
“Do you miss home?”.
Lúc đó không biết có nhớ nhà không, hai tuần ngắn quá chưa kịp nhớ nhà thì đã phải về. Chỉ lúc ngồi dài thượt trên taxi vì kẹt xe và trước câu hỏi của người tài xế, tôi mới đắn đo chút rồi trả lời “Yes”.
“Nitnoy” – một chút, trong tiếng Thái. Có lẽ anh ấy không nghe thấy.
Ngồi trong phòng chờ cất cánh, tôi ngáp ngắn ngáp dài vì mãi chưa được bay, nhìn ra ngoài cửa thì trời đã ngả dần về đêm. Đang lướt Facebook với chút Wifi giờ chót thì thấy có tin nhắn Zalo. Của mẹ, mẹ chỉ biết dùng Zalo vì được tôi chỉ cho trước khi đi.
“Con à, mẹ đây, con sắp bay chưa?”
Lúc đó, tôi chỉ muốn cái thông báo “chuyến bay mang số hiệu *gì gì đó* sẽ rời tới 19 giờ” bị lỗi rồi người ta mời chúng tôi ra cửa bay luôn. Tôi biết nhớ nhà là gì rồi.
Chúng tôi nợ tiếng Việt một hàm ơn, để chúng tôi có thể chia sẻ với nhau niềm yêu thương quan tâm mà không cần phải nói thẳng ra bao điều còn ngại ngùng: Con yêu ba/con yêu mẹ nhiều lắm, con nhớ nhà lắm, con muốn về gặp mọi người quá.
“Con ơi, mẹ đây, tuần này con có về thăm nhà không?”
“Ba ơi, con đây, cả nhà đã ăn tối chưa”
“Con ơi, ba đây, con đang làm bài à?
Từng cái danh từ nhân xưng, từng cái “đây” thể hiện sự hiện diện một cách thân tình, rồi hậu tố không, à, chưa với những tông giọng trầm trầm tình cảm khiến mỗi câu, mỗi từ Tiếng Việt được thốt ra chan chứa sự luyến thuộc mà ngôn ngữ thế giới không thể truyền tải trọn vẹn tới những người con đất Việt.
Tôi không quên được một buổi chiều trong bệnh viện khi vào thăm người thân. Lúc ra về, khi đi qua khoa Nhi, tôi thấy một chiếc giường nhỏ đầy người vây quanh: một ông bố, bà mẹ, vài y tá và bác sĩ. Ông bố quỳ dưới chân giường, nhìn đứa trẻ rồi nói: “Con ơi, ba nè, con dậy đi con?”. Người mẹ bần thần bên giường, mấy cô y tá buồn bã, tôi không dám đứng nhìn, nghèn nghẹn nước mắt. Một nỗi buồn sao mà Việt Nam quá, hay chỉ có người Việt Nam sẽ hỏi vậy? “Dậy đi con, ba con thương con lắm đó, dậy đi rồi cả nhà lại đi chơi…”
Tôi biết mình là người Việt Nam khi những cuộc trò chuyện đời thường cũng gieo vào mỗi người cảm giác thân thuộc và tình yêu gia đình, để rồi chúng ta bật khóc lúc nào không hay. Sự nhạy cảm mong manh ấy, chúng ta có quyền tự hào vì nó.
Theo CafeF
Bạn có biết, tiếng Pháp không những được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Chính phủ, trong giảng dạy ở trường và các loại sách báo, mà còn thâm nhập vào cả đời sống thường ngày của người dân Việt?
Sự ra đời của chữ Quốc ngữ và sức ảnh hưởng của tiếng Pháp
Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mụcAlexandre de Rhodes (tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La năm 1651), với mục đích dùng ký tự Latinh làm nền tảng cho tiếng Việt.
“Latinh hóa” chữ Việt ngày càng được phổ biến để trở thành Quốc ngữ, chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của ngôn ngữ Tây phương, nổi bật nhất là văn hóa Pháp.
Khi chiếm được ba tỉnh Nam Bộ, người Pháp đã nắm trong tay một công cụ vô cùng hữu hiệu để truyền bá văn hoá đồng thời chuyển văn hoá Nho giáo sang văn hoá Phương Tây. Tờ Gia Định Báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam sau này.
Đối với người bình dân, việc tiếp nhận tiếng Pháp đến một cách rất tự nhiên. Người ta có thể nói “Cắt tóc, thui dê” để chỉ ngày Quốc khánh Pháp 14/7, Quatorze Juillet. Để tả con cọp, người ta có thể dài dòng văn tự: “tí ti giôn, tí ti noa, lủy xực me-xừ, lủy xực cả moi”. Diễn nôm câu này là một chút màu vàng (jaune), một chút màu đen (noir), nó ăn thịt ông (monsieur), nó ăn thịt cả tôi (moi).
Hay những đại danh từ nhân xưng như toa (anh, mày – toi), moa hay mỏa (tôi, tao – moi), en hay ẻn(cô ấy, chị ấy – elle), lúy hay lủy (anh ấy, hắn – lui), xừ hay me-xừ (ông, ngài – monsieur)… Học trò trường Tây, những nhà trí thức khoa bảng hay cả những người tỏ ra “thời thượng” ngày xưa thường dùng những đại từ này. Cũng vì thế có một câu mang tính cách châm chọc: “Hôm qua moa đi xe lửa, buồn tiểu quá nên moa phải đái trên đầu toa” (toa ở đây có 2 nghĩa: toa xe lửa nhưng cũng có ý là toi (anh) trong tiếng Pháp).
Nhà ga cũng có xuất xứ từ tiếng Pháp gare. Ga là công trình kiến trúc làm nơi cho tàu hoả, tàu điện hay máy bay đỗ để hành khách lên xuống hoặc để xếp dỡ hàng hoá. Từ sự vay mượn này ta có thêm những từ ngữ như sân ga, trưởng ga, ga chính, ga xép…
Nhà ga ở Sài Còn xưa. (Ảnh: HinhanhVietNam.com)Có những từ ngữ xuất xứ từ tiếng Pháp nhưng vì lâu ngày dùng quen nên người ta cứ tưởng chúng là những từ “thuần Việt”. Chẳng hạn như cao su (caoutchouc), một loại cây công nghiệp được người Pháp du nhập vào Việt Nam qua hình thức những đồn điền tại miền Nam.
Nhà băng (banque) là một chữ quen dùng trong ngôn ngữ hàng ngày, còn xà bông cũng là loại chữ dùng lâu ngày thành quen nên ít người để ý xuất xứ của nó là từ tiếng Pháp, savon.
Thuật ngữ quân sự chỉ những công sự xây đắp thành khối vững chắc, dùng để phòng ngự, cố thủ một nơi nào đó được gọi là lô-cốt có xuất xứ từ blockhaus. Ngày nay, chữ lô cốt còn được dùng chỉ những nơi đào đường, thường được rào chắn, vây kín mặt đường, cản trở lưu thông.
Xưa kia cảnh sát được gọi qua nhiều tên: mã-tà (xuất xứ từ tiếng Pháp matraque, có nghĩa là dùi cui),sen đầm (gendarme), phú-lít (police), ông cò (commissaire)… Lực lượng thuế quan (ngày nay gọi là hải quan) được gọi là đoan (douane), lính đoan còn có nhiệm vụ đi bắt rượu lậu là một mặt hàng quốc cấm thời Pháp thuộc.
Sự vay mượn tiếng Pháp trong lĩnh vực ẩm thực
Chúng ta thấy ngôn ngữ Việt vay mượn từ tiếng Pháp trong rất nhiều lĩnh vực. Về ẩm thực, tiếng Việt thường mượn cả cách phát âm đến tên của các món ăn có xuất xứ từ phương Tây. Vào nhà hàng, người phục vụ đưa ra mơ-nuy (thực đơn – menu) trong đó có những món như bít-tết (chữ bifteck của Pháp lại mượn từ nguyên thủy tiếng Anh – beefsteak), những thức uống như bia (rượu bia – bière),rượu vang (rượu nho – vin)…
Về thịt thì có xúc-xích (saucisse), pa-tê (paté), giăm-bông (jambon), thịt phi-lê (thịt thăn, thịt lườn – filet). Các món ăn thì có ra-gu (ragout), cà-ri (curry),… Khi ăn xong, khách xộp còn cho người phục vụ tiền puộc-boa (tiền thưởng – pourboire). Ngày nay từ boa hay bo được dùng phổ biến với ý nghĩa cho tiền thưởng, hay còn gọi là tiền phong bao hoặc tiền phục vụ.
Từ rất lâu, ở Sài Gòn xuất hiện các loại bánh mì theo kiểu Pháp, miền Bắc lại gọi là bánh tây với hàm ý du nhập từ Pháp. Có nhiều loại bánh đặc biệt như bánh mì ba-ghét (loại bánh mì nhỏ, dài – baguette), bánh pa-tê-sô (một loại bánh nhân thịt, ăn lúc nóng vừa dòn vừa ngon – pathé chaud), bánh croát-xăng (hay còn gọi là bánh sừng bò – croissant).
Người Sài Gòn thường ăn sáng với bánh mì kèm theo nhiều kiểu chế biến trứng gà như ốp-la (trứng chỉ chiên một mặt và để nguyên lòng đỏ – oeuf sur le plat), trứng ốp-lết (trứng tráng – omelette) hoặc trứng la-cóc (trứng chụng nước sôi, khi ăn có người lại thích thêm một chút muối tiêu – oeuf à la coque).
Món không thể thiếu trong bữa ăn sáng là cà phê (café). Cà phê phải được lọc từ cái phin (filtre à café) mới đúng điệu.
Người phương Tây dùng nhiều sữa và các sản phẩm của sữa nên đã đưa vào ngôn ngữ tiếng Việt những từ ngữ như bơ (beurre), pho-mát (f-romage), kem (crème…
Nông phẩm thì có đậu cô-ve (còn gọi tắt là đậu ve – haricot vert), đậu pơ-tí-poa (đậu Hòa Lan có hột tròn màu xanh – petits-pois), bắp sú (bắp cải – chou), súp-lơ (bông cải – chou-fleur), xà lách (salade),cải xoong (còn gọi là xà lách xoong – cresson), cà-rốt (carotte), ác-ti-sô (artichaut)…
Về trang phục
Nét trẻ trung, thanh lịch pha chút hiện đại trong thời trang của phụ nữ Sài Gòn xưa. (Ảnh: Saotoday)Ngôn ngữ về trang phục cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Pháp. Bình thường hàng ngày người ta mặc áo sơ-mi (chemise), cổ tay có cài khuy măng-sét (manchette). Khi đi tiệc tùng hoặc hội họp thì mặc áo vét (vest) hay bộ vét-tông (veston) kèm theo chiếc cà-vạt (cravate) trên cổ áo sơ mi. Trời hơi lạnh có thể mặc bên trong áo vét một chiếc gi-lê (gilet) và hai tay mang găng (gants) cho ấm.
Ngay cả quần áo lót bên trong cũng mượn từ tiếng Pháp. Phụ nữ trên thì mang xú-chiêng (nịt ngực – soutien-gorge) dưới thì có xì-líp (slip). Nam giới thì mặc áo may-ô (maillot) bên trong áo sơ-mi. Mặc quần thì phải có xanh-tuya (dây nịt – ceinture) và khi trời nóng thì mặc quần sóc (quần ngắn, tiếng Pháp là short được mượn từ tiếng Anh shorts).
Trang phục có thể được may từ các loại cô-tông (vải bông – coton) hoặc bằng len (làm từ lông cừu – laine). Trên đầu có mũ phớt (feutre, một loại mũ dạ), mũ be-rê (béret, một loại mũ nồi)… dưới chân là đôi dép săng-đan (sandales), sau này người Sài Gòn lại chế thêm dép sa-bô (sabot nguyên thủy tiếng Pháp là guốc).
Về âm nhạc
Tiếng Tây cũng đi vào âm nhạc. Từ điệu valse, tango… đến đàn piano (dương cầm), violon (vĩ cầm),kèn harmonica (khẩu cầm)… Ở các đăng-xinh (khiêu vũ trường – dancing) luôn có ọc-két (ban nhạc – orchestre) chơi nhạc và xuất hiện một nghề mới gọi là ca-ve (gái nhảy – cavalière). Ngày nay người ta dùng từ ngữ ca-ve với ý chỉ tất cả những cô gái làm tiền, khác hẳn với ý nghĩa nguyên thủy của nó.
Về xe cộ
Góc đường Hai Bà Trưng – Hiền Vương ( Võ Thị Sáu) những năm 1960. (Ảnh: tachcaphe.com)Người Pháp khi đến Việt Nam mang theo cả chiếc ô-tô (xe hơi – auto, automobile). Xe xưa thì khởi động bằng cách quay ma-ni-ven (manivelle) đặt ở đầu xe, sau này tân tiến hơn có bộ phận đề-ma-rơ(khởi động – démarreur). Sau khi đề (demarrer), xe sẽ nổ máy, sốp-phơ (người lái xe – chauffeur) sẽ cầm lấy vô-lăng (bánh lái – volant) để điều khiển xe… Về cơ khí thì người Sài Gòn dùng các từ ngữ như cờ-lê (chìa vặn – clé), mỏ-lết (molete), đinh vít (vis), tuốc-nơ-vít (cái vặn vít – tournevis), công-tơ(thiết bị đồng hồ – compteur), công tắc (cầu dao – contact)…
Về chiếc xe đạp cũng có nhiều điều lý thú. Chiếc xe đạp trong ngôn ngữ Việt mượn rất nhiều từ tiếng Pháp. Trước hết, phía trước có guy-đông (thanh tay lái – guidon), dưới chân có pê-đan (bàn đạp – pedale), săm (ruột bánh xe – chambre à air) và phía sau là bọc-ba-ga (để chở hàng hóa – porte-bagages).
Chi tiết các bộ phận trong xe đạp cũng… rất Tây. Có dây sên (dây xích – chaine), có líp (bộ phận của xe đạp gồm hai vành tròn kim loại lồng vào nhau, chỉ quay tự do được theo một chiều – roue libre), rồiphanh (thắng – frein) ở cả bánh trước lẫn bánh sau. Thêm vào đó còn có các bộ phận bảo vệ nhưgạc-đờ-bu (thanh chắn bùn – garde-boue) và gạc-đờ-sên (thanh che dây xích – garde-chaine).
Mỗi chiếc xe đạp xưa còn trang bị một ống bơm (pompe) để phòng khi lốp xe xuống hơi. Bên cạnh đó người ta gắn một chiếc đy-na-mô (dynamo – bộ phận phát điện làm sáng đèn để đi vào ban đêm).
Ngày xưa, đi xe đạp không đèn vào ban đêm rất dễ bị phú-lít thổi phạt nên nếu xe không đèn, người lái phải cầm bó nhang thay đèn. Sài Gòn xưa có các nhãn hiệu xe đạp mổi tiếng như Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling…
Đó là những chiếc xe đã tạo nên nền “văn minh xe đạp” của những thế hệ trước và một nền “văn hóa xe đạp” còn lưu lại trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Sài Gòn xưa.
Theo saigontrongtoi.net
Tình cờ đọc được một trang trong cuốn The Sympathizer của nhà văn gốc Việt từng được giải thưởng Pulitzer năm 2016 Nguyễn Thanh Việt – dòng tâm sự được đặt bút với câu hỏi “Điều gì khiến bạn cảm thấy thực sự là người Việt?”, tôi nhớ một đoạn lược ngắn của câu chuyện như sau.
“…Tôi đến một cửa hàng, hình như đó là một hiệu thuốc. Có một người đàn ông gốc Á ngồi cạnh tôi, có lẽ ông ấy là người Việt Nam. Tôi có thể nhìn ai đó và đoán “Bạn chắc hẳn là người Việt”. Ông ấy gọi điện thoại cho con của mình và nói chuyện bằng tiếng Việt. Ông nói: Con ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa?…
Nếu như bạn không biết tiếng Việt, câu của ông ấy dịch ra chỉ đơn giản là “Hello, child. This is your father. Have you eaten yet? Have you eaten rice yet? Câu đó chẳng có nghĩa gì quá to lớn trong tiếng Anh nhưng với tiếng Việt, nó chất chứa mọi điều. Con ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa? Có những điều trong tiếng Việt chất đầy cảm xúc và tôi đã lớn lên cùng những điều đó.
Khi nghe thấy, tôi gần như bật khóc. Và đó là lúc tôi biết mình là người Việt Nam… Lịch sử có ý nghĩa lớn lao với tôi, văn hóa Việt Nam ăn sâu vào tâm thức tôi, kể cả tiếng Việt của tôi không sõi, tôi vẫn cảm thấy gắn kết với Việt Nam…
Có nhiều cách để ai đó nhận ra mình là người Việt Nam, cũng như nhận ra mình là người Pháp, người Mỹ. Chừng nào tôi vẫn nhận ra mình là người Việt Nam, trái tim vẫn thổn thức vì những điều quá đỗi Việt Nam, tôi vẫn là người Việt Nam. Đó chính là lúc, tôi nhận ra con người Việt Nam trong mình”.
Mắt tôi nhòa đi, rưng rưng trong câu chuyện ngắn của Nguyễn Thanh Việt. Ngôn ngữ là nền tảng của văn hóa và chỉ với tiếng Việt, tôi thấy tình cảm gia đình, những thứ cảm xúc gần gũi, giản đơn mà dạt dào ấy được bồi đắp trong từng câu nói đời thường. Thế hệ chúng tôi lớn lên cùng tiếng Anh, tiếng Pháp, trau dồi thêm bao thứ ngôn ngữ Nhật, Trung, Hàn, các hệ chữ latin hay ký tự nhưng nếu ai hỏi “have you eaten yet?”, tôi chỉ biết đáp rồi hay chưa.
Chúng tôi lớn lên cùng thứ ngôn ngữ mà câu hỏi không chỉ để hỏi – đó là lời chào, sự động viên, tình cảm hay quan tâm chân thành. Tiếng Việt của chúng tôi không chỉ là công cụ giao tiếp, đó là một tín hiệu của sự thân thuộc, của quê hương, của “nhà” giữa nơi xa lạ.
Lần đầu tiên tới châu Âu khi 18 tuổi, cô bạn tôi lo lắng khi không tìm được đường từ trạm chờ xe bus về nhà. Tuyết càng rơi, trạm chờ xe bus vắng lặng con bé càng sợ; đến khi có một người phụ nữ bước tới, hỏi nó bằng thứ tiếng Việt đặc sệt như mấy Việt Kiều nó thấy trên tivi “Con ơi, con bị lạc đường à?”, con bé ôm chầm và òa khóc, tiếng khóc rất đỗi Việt Nam.
“Lúc ấy tao không mảy may nghĩ tới người phụ nữ ấy có phải người xấu hay không, cũng không khóc vì quá sợ hãi. Nhưng tao bỗng nhớ nhà, nhớ Việt Nam quá khi cô ấy hỏi bằng tiếng Việt. Chừng nào một câu tiếng Việt còn khiến tao khóc ngon lành hay cười vui khi chợt nghe thấy trên tàu điện, lúc đó tao còn biết rõ, dù có ở đây bao lâu, đất nước này cũng không phải quê mình. Việt Nam là nhà, mày ạ”.
Tôi nhớ lại câu thơ của Lưu Quang Vũ, tiếng thơ hiếm hoi ngợi ca tiếng Việt: “Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi/ Như vị muối chung lòng biển mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời…” Chừng nào từng câu từ, con chữ trong tiếng Việt còn khiến người ta rung động thì tình yêu đó cho tiếng Việt cứ âm thầm theo thời gian. Bởi vì trong tiếng Việt, có những câu từ của cảm xúc chẳng thể cắt nghĩa trọn vẹn sang một ngôn ngữ khác.
Tôi gặp Khôi khi cậu về nước cách đây một năm và ra Hà Nội. Theo bố mẹ qua Mỹ từ năm 6 tuổi, số lần Khôi về Việt Nam chắc chỉ được dăm ba lần. Ký ức Sài Gòn trong cậu có lẽ dần phôi phai, mang theo cả câu từ bập bẹ của trẻ lên sáu. Khôi kể dù ở nhà ba mẹ vẫn nói tiếng Việt, cậu đã quen với việc giao tiếp tiếng Anh với bạn bè và tiếng Việt dần thành một thứ ngôn ngữ xa lạ.
Tốt nghiệp đại học, cậu quyết định rời Mỹ một thời gian, về Việt Nam 3 tháng thực tập trong một công ty kiến trúc quốc tế có trụ sở ở Sài Gòn. Rồi Sài Gòn cũng đem đến cho cậu một tình yêu chớm nở, không phải đầu đời nhưng rung động đậm chất Á Đông, một cô gái Việt Nam bình thường nhưng với cậu ấy lại vô cùng lạ lẫm. Ngày Khôi rời Sài Gòn, cô gái nhắn cho anh một dòng tin nhắn: “Khôi ơi, anh có thương em không?”.
“Anh thương”, anh biết rằng mình sẽ phải về Việt Nam lần nữa.
“Lúc đó, em không biết thương là gì, trong tiếng Anh có Love là yêu, Like là thích, còn thương ra sao? Nhưng có gì đó trong em biết rằng, em cũng thương cô ấy, một thứ tình cảm thuần Việt mà chỉ có tiếng Việt mới giúp em nói hết được. “Thương” và “Ơi” – 2 từ em có cố gắng cả đời cũng không dịch ra được. Dù đi từ 6 tuổi hay 1 tuổi, em vẫn nghĩ mình là người Việt khi cảm nhận được hết những điều ấy”, cậu ấy từng kể với tôi. Kỳ diệu làm sao khi người ta bỗng nhận ra “danh tính” của bản thân chỉ qua vài từ giản đơn.
Từng có lúc, tôi nghĩ sẽ muốn đi tới một nước xa xôi, đi đâu khỏi nhà thật xa để biết rằng nhớ nhà là như thế nào, rằng có nhớ bố mẹ nhiều thế không. Hôm đó là gần Giáng sinh, 22/12. Hai tuần cho một hội nghị sinh viên cũng kết thúc, chúng tôi chuẩn bị ra sân bay Suvarnabhumi về Hà Nội. “Đáng nhẽ không bao giờ nên bay vào lúc 5-6h chiều”, tôi lẩm bẩm, chiều buông một màu ảm đạm. Chẳng nói được gì với anh tài xế nên chỉ ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ. Tắc đường, nhưng còn sớm nên không lo. Thấy cái không khí cũng ngột ngạt quá, dòng xe thì còn dài dài, anh tài xế hỏi vài câu cho vơi bớt cái khoảng lặng trên xe.
“Do you miss home?”.
Lúc đó không biết có nhớ nhà không, hai tuần ngắn quá chưa kịp nhớ nhà thì đã phải về. Chỉ lúc ngồi dài thượt trên taxi vì kẹt xe và trước câu hỏi của người tài xế, tôi mới đắn đo chút rồi trả lời “Yes”.
“Nitnoy” – một chút, trong tiếng Thái. Có lẽ anh ấy không nghe thấy.
Ngồi trong phòng chờ cất cánh, tôi ngáp ngắn ngáp dài vì mãi chưa được bay, nhìn ra ngoài cửa thì trời đã ngả dần về đêm. Đang lướt Facebook với chút Wifi giờ chót thì thấy có tin nhắn Zalo. Của mẹ, mẹ chỉ biết dùng Zalo vì được tôi chỉ cho trước khi đi.
“Con à, mẹ đây, con sắp bay chưa?”
Lúc đó, tôi chỉ muốn cái thông báo “chuyến bay mang số hiệu *gì gì đó* sẽ rời tới 19 giờ” bị lỗi rồi người ta mời chúng tôi ra cửa bay luôn. Tôi biết nhớ nhà là gì rồi.
Chúng tôi nợ tiếng Việt một hàm ơn, để chúng tôi có thể chia sẻ với nhau niềm yêu thương quan tâm mà không cần phải nói thẳng ra bao điều còn ngại ngùng: Con yêu ba/con yêu mẹ nhiều lắm, con nhớ nhà lắm, con muốn về gặp mọi người quá.
“Con ơi, mẹ đây, tuần này con có về thăm nhà không?”
“Ba ơi, con đây, cả nhà đã ăn tối chưa”
“Con ơi, ba đây, con đang làm bài à?
Từng cái danh từ nhân xưng, từng cái “đây” thể hiện sự hiện diện một cách thân tình, rồi hậu tố không, à, chưa với những tông giọng trầm trầm tình cảm khiến mỗi câu, mỗi từ Tiếng Việt được thốt ra chan chứa sự luyến thuộc mà ngôn ngữ thế giới không thể truyền tải trọn vẹn tới những người con đất Việt.
Tôi không quên được một buổi chiều trong bệnh viện khi vào thăm người thân. Lúc ra về, khi đi qua khoa Nhi, tôi thấy một chiếc giường nhỏ đầy người vây quanh: một ông bố, bà mẹ, vài y tá và bác sĩ. Ông bố quỳ dưới chân giường, nhìn đứa trẻ rồi nói: “Con ơi, ba nè, con dậy đi con?”. Người mẹ bần thần bên giường, mấy cô y tá buồn bã, tôi không dám đứng nhìn, nghèn nghẹn nước mắt. Một nỗi buồn sao mà Việt Nam quá, hay chỉ có người Việt Nam sẽ hỏi vậy? “Dậy đi con, ba con thương con lắm đó, dậy đi rồi cả nhà lại đi chơi…”
Tôi biết mình là người Việt Nam khi những cuộc trò chuyện đời thường cũng gieo vào mỗi người cảm giác thân thuộc và tình yêu gia đình, để rồi chúng ta bật khóc lúc nào không hay. Sự nhạy cảm mong manh ấy, chúng ta có quyền tự hào vì nó.
Theo CafeF
Bạn có biết, tiếng Pháp không những được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Chính phủ, trong giảng dạy ở trường và các loại sách báo, mà còn thâm nhập vào cả đời sống thường ngày của người dân Việt?
Sự ra đời của chữ Quốc ngữ và sức ảnh hưởng của tiếng Pháp
Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mụcAlexandre de Rhodes (tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La năm 1651), với mục đích dùng ký tự Latinh làm nền tảng cho tiếng Việt.
“Latinh hóa” chữ Việt ngày càng được phổ biến để trở thành Quốc ngữ, chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của ngôn ngữ Tây phương, nổi bật nhất là văn hóa Pháp.
Khi chiếm được ba tỉnh Nam Bộ, người Pháp đã nắm trong tay một công cụ vô cùng hữu hiệu để truyền bá văn hoá đồng thời chuyển văn hoá Nho giáo sang văn hoá Phương Tây. Tờ Gia Định Báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam sau này.
Đối với người bình dân, việc tiếp nhận tiếng Pháp đến một cách rất tự nhiên. Người ta có thể nói “Cắt tóc, thui dê” để chỉ ngày Quốc khánh Pháp 14/7, Quatorze Juillet. Để tả con cọp, người ta có thể dài dòng văn tự: “tí ti giôn, tí ti noa, lủy xực me-xừ, lủy xực cả moi”. Diễn nôm câu này là một chút màu vàng (jaune), một chút màu đen (noir), nó ăn thịt ông (monsieur), nó ăn thịt cả tôi (moi).
Hay những đại danh từ nhân xưng như toa (anh, mày – toi), moa hay mỏa (tôi, tao – moi), en hay ẻn(cô ấy, chị ấy – elle), lúy hay lủy (anh ấy, hắn – lui), xừ hay me-xừ (ông, ngài – monsieur)… Học trò trường Tây, những nhà trí thức khoa bảng hay cả những người tỏ ra “thời thượng” ngày xưa thường dùng những đại từ này. Cũng vì thế có một câu mang tính cách châm chọc: “Hôm qua moa đi xe lửa, buồn tiểu quá nên moa phải đái trên đầu toa” (toa ở đây có 2 nghĩa: toa xe lửa nhưng cũng có ý là toi (anh) trong tiếng Pháp).
Nhà ga cũng có xuất xứ từ tiếng Pháp gare. Ga là công trình kiến trúc làm nơi cho tàu hoả, tàu điện hay máy bay đỗ để hành khách lên xuống hoặc để xếp dỡ hàng hoá. Từ sự vay mượn này ta có thêm những từ ngữ như sân ga, trưởng ga, ga chính, ga xép…
Nhà ga ở Sài Còn xưa. (Ảnh: HinhanhVietNam.com)Có những từ ngữ xuất xứ từ tiếng Pháp nhưng vì lâu ngày dùng quen nên người ta cứ tưởng chúng là những từ “thuần Việt”. Chẳng hạn như cao su (caoutchouc), một loại cây công nghiệp được người Pháp du nhập vào Việt Nam qua hình thức những đồn điền tại miền Nam.
Nhà băng (banque) là một chữ quen dùng trong ngôn ngữ hàng ngày, còn xà bông cũng là loại chữ dùng lâu ngày thành quen nên ít người để ý xuất xứ của nó là từ tiếng Pháp, savon.
Thuật ngữ quân sự chỉ những công sự xây đắp thành khối vững chắc, dùng để phòng ngự, cố thủ một nơi nào đó được gọi là lô-cốt có xuất xứ từ blockhaus. Ngày nay, chữ lô cốt còn được dùng chỉ những nơi đào đường, thường được rào chắn, vây kín mặt đường, cản trở lưu thông.
Xưa kia cảnh sát được gọi qua nhiều tên: mã-tà (xuất xứ từ tiếng Pháp matraque, có nghĩa là dùi cui),sen đầm (gendarme), phú-lít (police), ông cò (commissaire)… Lực lượng thuế quan (ngày nay gọi là hải quan) được gọi là đoan (douane), lính đoan còn có nhiệm vụ đi bắt rượu lậu là một mặt hàng quốc cấm thời Pháp thuộc.
Sự vay mượn tiếng Pháp trong lĩnh vực ẩm thực
Chúng ta thấy ngôn ngữ Việt vay mượn từ tiếng Pháp trong rất nhiều lĩnh vực. Về ẩm thực, tiếng Việt thường mượn cả cách phát âm đến tên của các món ăn có xuất xứ từ phương Tây. Vào nhà hàng, người phục vụ đưa ra mơ-nuy (thực đơn – menu) trong đó có những món như bít-tết (chữ bifteck của Pháp lại mượn từ nguyên thủy tiếng Anh – beefsteak), những thức uống như bia (rượu bia – bière),rượu vang (rượu nho – vin)…
Về thịt thì có xúc-xích (saucisse), pa-tê (paté), giăm-bông (jambon), thịt phi-lê (thịt thăn, thịt lườn – filet). Các món ăn thì có ra-gu (ragout), cà-ri (curry),… Khi ăn xong, khách xộp còn cho người phục vụ tiền puộc-boa (tiền thưởng – pourboire). Ngày nay từ boa hay bo được dùng phổ biến với ý nghĩa cho tiền thưởng, hay còn gọi là tiền phong bao hoặc tiền phục vụ.
Từ rất lâu, ở Sài Gòn xuất hiện các loại bánh mì theo kiểu Pháp, miền Bắc lại gọi là bánh tây với hàm ý du nhập từ Pháp. Có nhiều loại bánh đặc biệt như bánh mì ba-ghét (loại bánh mì nhỏ, dài – baguette), bánh pa-tê-sô (một loại bánh nhân thịt, ăn lúc nóng vừa dòn vừa ngon – pathé chaud), bánh croát-xăng (hay còn gọi là bánh sừng bò – croissant).
Người Sài Gòn thường ăn sáng với bánh mì kèm theo nhiều kiểu chế biến trứng gà như ốp-la (trứng chỉ chiên một mặt và để nguyên lòng đỏ – oeuf sur le plat), trứng ốp-lết (trứng tráng – omelette) hoặc trứng la-cóc (trứng chụng nước sôi, khi ăn có người lại thích thêm một chút muối tiêu – oeuf à la coque).
Món không thể thiếu trong bữa ăn sáng là cà phê (café). Cà phê phải được lọc từ cái phin (filtre à café) mới đúng điệu.
Người phương Tây dùng nhiều sữa và các sản phẩm của sữa nên đã đưa vào ngôn ngữ tiếng Việt những từ ngữ như bơ (beurre), pho-mát (f-romage), kem (crème…
Nông phẩm thì có đậu cô-ve (còn gọi tắt là đậu ve – haricot vert), đậu pơ-tí-poa (đậu Hòa Lan có hột tròn màu xanh – petits-pois), bắp sú (bắp cải – chou), súp-lơ (bông cải – chou-fleur), xà lách (salade),cải xoong (còn gọi là xà lách xoong – cresson), cà-rốt (carotte), ác-ti-sô (artichaut)…
Về trang phục
Nét trẻ trung, thanh lịch pha chút hiện đại trong thời trang của phụ nữ Sài Gòn xưa. (Ảnh: Saotoday)Ngôn ngữ về trang phục cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Pháp. Bình thường hàng ngày người ta mặc áo sơ-mi (chemise), cổ tay có cài khuy măng-sét (manchette). Khi đi tiệc tùng hoặc hội họp thì mặc áo vét (vest) hay bộ vét-tông (veston) kèm theo chiếc cà-vạt (cravate) trên cổ áo sơ mi. Trời hơi lạnh có thể mặc bên trong áo vét một chiếc gi-lê (gilet) và hai tay mang găng (gants) cho ấm.
Ngay cả quần áo lót bên trong cũng mượn từ tiếng Pháp. Phụ nữ trên thì mang xú-chiêng (nịt ngực – soutien-gorge) dưới thì có xì-líp (slip). Nam giới thì mặc áo may-ô (maillot) bên trong áo sơ-mi. Mặc quần thì phải có xanh-tuya (dây nịt – ceinture) và khi trời nóng thì mặc quần sóc (quần ngắn, tiếng Pháp là short được mượn từ tiếng Anh shorts).
Trang phục có thể được may từ các loại cô-tông (vải bông – coton) hoặc bằng len (làm từ lông cừu – laine). Trên đầu có mũ phớt (feutre, một loại mũ dạ), mũ be-rê (béret, một loại mũ nồi)… dưới chân là đôi dép săng-đan (sandales), sau này người Sài Gòn lại chế thêm dép sa-bô (sabot nguyên thủy tiếng Pháp là guốc).
Về âm nhạc
Tiếng Tây cũng đi vào âm nhạc. Từ điệu valse, tango… đến đàn piano (dương cầm), violon (vĩ cầm),kèn harmonica (khẩu cầm)… Ở các đăng-xinh (khiêu vũ trường – dancing) luôn có ọc-két (ban nhạc – orchestre) chơi nhạc và xuất hiện một nghề mới gọi là ca-ve (gái nhảy – cavalière). Ngày nay người ta dùng từ ngữ ca-ve với ý chỉ tất cả những cô gái làm tiền, khác hẳn với ý nghĩa nguyên thủy của nó.
Về xe cộ
Góc đường Hai Bà Trưng – Hiền Vương ( Võ Thị Sáu) những năm 1960. (Ảnh: tachcaphe.com)Người Pháp khi đến Việt Nam mang theo cả chiếc ô-tô (xe hơi – auto, automobile). Xe xưa thì khởi động bằng cách quay ma-ni-ven (manivelle) đặt ở đầu xe, sau này tân tiến hơn có bộ phận đề-ma-rơ(khởi động – démarreur). Sau khi đề (demarrer), xe sẽ nổ máy, sốp-phơ (người lái xe – chauffeur) sẽ cầm lấy vô-lăng (bánh lái – volant) để điều khiển xe… Về cơ khí thì người Sài Gòn dùng các từ ngữ như cờ-lê (chìa vặn – clé), mỏ-lết (molete), đinh vít (vis), tuốc-nơ-vít (cái vặn vít – tournevis), công-tơ(thiết bị đồng hồ – compteur), công tắc (cầu dao – contact)…
Về chiếc xe đạp cũng có nhiều điều lý thú. Chiếc xe đạp trong ngôn ngữ Việt mượn rất nhiều từ tiếng Pháp. Trước hết, phía trước có guy-đông (thanh tay lái – guidon), dưới chân có pê-đan (bàn đạp – pedale), săm (ruột bánh xe – chambre à air) và phía sau là bọc-ba-ga (để chở hàng hóa – porte-bagages).
Chi tiết các bộ phận trong xe đạp cũng… rất Tây. Có dây sên (dây xích – chaine), có líp (bộ phận của xe đạp gồm hai vành tròn kim loại lồng vào nhau, chỉ quay tự do được theo một chiều – roue libre), rồiphanh (thắng – frein) ở cả bánh trước lẫn bánh sau. Thêm vào đó còn có các bộ phận bảo vệ nhưgạc-đờ-bu (thanh chắn bùn – garde-boue) và gạc-đờ-sên (thanh che dây xích – garde-chaine).
Mỗi chiếc xe đạp xưa còn trang bị một ống bơm (pompe) để phòng khi lốp xe xuống hơi. Bên cạnh đó người ta gắn một chiếc đy-na-mô (dynamo – bộ phận phát điện làm sáng đèn để đi vào ban đêm).
Ngày xưa, đi xe đạp không đèn vào ban đêm rất dễ bị phú-lít thổi phạt nên nếu xe không đèn, người lái phải cầm bó nhang thay đèn. Sài Gòn xưa có các nhãn hiệu xe đạp mổi tiếng như Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling…
Đó là những chiếc xe đã tạo nên nền “văn minh xe đạp” của những thế hệ trước và một nền “văn hóa xe đạp” còn lưu lại trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Sài Gòn xưa.
Theo saigontrongtoi.net
Tình cờ đọc được một trang trong cuốn The Sympathizer của nhà văn gốc Việt từng được giải thưởng Pulitzer năm 2016 Nguyễn Thanh Việt – dòng tâm sự được đặt bút với câu hỏi “Điều gì khiến bạn cảm thấy thực sự là người Việt?”, tôi nhớ một đoạn lược ngắn của câu chuyện như sau.
“…Tôi đến một cửa hàng, hình như đó là một hiệu thuốc. Có một người đàn ông gốc Á ngồi cạnh tôi, có lẽ ông ấy là người Việt Nam. Tôi có thể nhìn ai đó và đoán “Bạn chắc hẳn là người Việt”. Ông ấy gọi điện thoại cho con của mình và nói chuyện bằng tiếng Việt. Ông nói: Con ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa?…
Nếu như bạn không biết tiếng Việt, câu của ông ấy dịch ra chỉ đơn giản là “Hello, child. This is your father. Have you eaten yet? Have you eaten rice yet? Câu đó chẳng có nghĩa gì quá to lớn trong tiếng Anh nhưng với tiếng Việt, nó chất chứa mọi điều. Con ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa? Có những điều trong tiếng Việt chất đầy cảm xúc và tôi đã lớn lên cùng những điều đó.
Khi nghe thấy, tôi gần như bật khóc. Và đó là lúc tôi biết mình là người Việt Nam… Lịch sử có ý nghĩa lớn lao với tôi, văn hóa Việt Nam ăn sâu vào tâm thức tôi, kể cả tiếng Việt của tôi không sõi, tôi vẫn cảm thấy gắn kết với Việt Nam…
Có nhiều cách để ai đó nhận ra mình là người Việt Nam, cũng như nhận ra mình là người Pháp, người Mỹ. Chừng nào tôi vẫn nhận ra mình là người Việt Nam, trái tim vẫn thổn thức vì những điều quá đỗi Việt Nam, tôi vẫn là người Việt Nam. Đó chính là lúc, tôi nhận ra con người Việt Nam trong mình”.
Mắt tôi nhòa đi, rưng rưng trong câu chuyện ngắn của Nguyễn Thanh Việt. Ngôn ngữ là nền tảng của văn hóa và chỉ với tiếng Việt, tôi thấy tình cảm gia đình, những thứ cảm xúc gần gũi, giản đơn mà dạt dào ấy được bồi đắp trong từng câu nói đời thường. Thế hệ chúng tôi lớn lên cùng tiếng Anh, tiếng Pháp, trau dồi thêm bao thứ ngôn ngữ Nhật, Trung, Hàn, các hệ chữ latin hay ký tự nhưng nếu ai hỏi “have you eaten yet?”, tôi chỉ biết đáp rồi hay chưa.
Chúng tôi lớn lên cùng thứ ngôn ngữ mà câu hỏi không chỉ để hỏi – đó là lời chào, sự động viên, tình cảm hay quan tâm chân thành. Tiếng Việt của chúng tôi không chỉ là công cụ giao tiếp, đó là một tín hiệu của sự thân thuộc, của quê hương, của “nhà” giữa nơi xa lạ.
Lần đầu tiên tới châu Âu khi 18 tuổi, cô bạn tôi lo lắng khi không tìm được đường từ trạm chờ xe bus về nhà. Tuyết càng rơi, trạm chờ xe bus vắng lặng con bé càng sợ; đến khi có một người phụ nữ bước tới, hỏi nó bằng thứ tiếng Việt đặc sệt như mấy Việt Kiều nó thấy trên tivi “Con ơi, con bị lạc đường à?”, con bé ôm chầm và òa khóc, tiếng khóc rất đỗi Việt Nam.
“Lúc ấy tao không mảy may nghĩ tới người phụ nữ ấy có phải người xấu hay không, cũng không khóc vì quá sợ hãi. Nhưng tao bỗng nhớ nhà, nhớ Việt Nam quá khi cô ấy hỏi bằng tiếng Việt. Chừng nào một câu tiếng Việt còn khiến tao khóc ngon lành hay cười vui khi chợt nghe thấy trên tàu điện, lúc đó tao còn biết rõ, dù có ở đây bao lâu, đất nước này cũng không phải quê mình. Việt Nam là nhà, mày ạ”.
Tôi nhớ lại câu thơ của Lưu Quang Vũ, tiếng thơ hiếm hoi ngợi ca tiếng Việt: “Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi/ Như vị muối chung lòng biển mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời…” Chừng nào từng câu từ, con chữ trong tiếng Việt còn khiến người ta rung động thì tình yêu đó cho tiếng Việt cứ âm thầm theo thời gian. Bởi vì trong tiếng Việt, có những câu từ của cảm xúc chẳng thể cắt nghĩa trọn vẹn sang một ngôn ngữ khác.
Tôi gặp Khôi khi cậu về nước cách đây một năm và ra Hà Nội. Theo bố mẹ qua Mỹ từ năm 6 tuổi, số lần Khôi về Việt Nam chắc chỉ được dăm ba lần. Ký ức Sài Gòn trong cậu có lẽ dần phôi phai, mang theo cả câu từ bập bẹ của trẻ lên sáu. Khôi kể dù ở nhà ba mẹ vẫn nói tiếng Việt, cậu đã quen với việc giao tiếp tiếng Anh với bạn bè và tiếng Việt dần thành một thứ ngôn ngữ xa lạ.
Tốt nghiệp đại học, cậu quyết định rời Mỹ một thời gian, về Việt Nam 3 tháng thực tập trong một công ty kiến trúc quốc tế có trụ sở ở Sài Gòn. Rồi Sài Gòn cũng đem đến cho cậu một tình yêu chớm nở, không phải đầu đời nhưng rung động đậm chất Á Đông, một cô gái Việt Nam bình thường nhưng với cậu ấy lại vô cùng lạ lẫm. Ngày Khôi rời Sài Gòn, cô gái nhắn cho anh một dòng tin nhắn: “Khôi ơi, anh có thương em không?”.
“Anh thương”, anh biết rằng mình sẽ phải về Việt Nam lần nữa.
“Lúc đó, em không biết thương là gì, trong tiếng Anh có Love là yêu, Like là thích, còn thương ra sao? Nhưng có gì đó trong em biết rằng, em cũng thương cô ấy, một thứ tình cảm thuần Việt mà chỉ có tiếng Việt mới giúp em nói hết được. “Thương” và “Ơi” – 2 từ em có cố gắng cả đời cũng không dịch ra được. Dù đi từ 6 tuổi hay 1 tuổi, em vẫn nghĩ mình là người Việt khi cảm nhận được hết những điều ấy”, cậu ấy từng kể với tôi. Kỳ diệu làm sao khi người ta bỗng nhận ra “danh tính” của bản thân chỉ qua vài từ giản đơn.
Từng có lúc, tôi nghĩ sẽ muốn đi tới một nước xa xôi, đi đâu khỏi nhà thật xa để biết rằng nhớ nhà là như thế nào, rằng có nhớ bố mẹ nhiều thế không. Hôm đó là gần Giáng sinh, 22/12. Hai tuần cho một hội nghị sinh viên cũng kết thúc, chúng tôi chuẩn bị ra sân bay Suvarnabhumi về Hà Nội. “Đáng nhẽ không bao giờ nên bay vào lúc 5-6h chiều”, tôi lẩm bẩm, chiều buông một màu ảm đạm. Chẳng nói được gì với anh tài xế nên chỉ ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ. Tắc đường, nhưng còn sớm nên không lo. Thấy cái không khí cũng ngột ngạt quá, dòng xe thì còn dài dài, anh tài xế hỏi vài câu cho vơi bớt cái khoảng lặng trên xe.
“Do you miss home?”.
Lúc đó không biết có nhớ nhà không, hai tuần ngắn quá chưa kịp nhớ nhà thì đã phải về. Chỉ lúc ngồi dài thượt trên taxi vì kẹt xe và trước câu hỏi của người tài xế, tôi mới đắn đo chút rồi trả lời “Yes”.
“Nitnoy” – một chút, trong tiếng Thái. Có lẽ anh ấy không nghe thấy.
Ngồi trong phòng chờ cất cánh, tôi ngáp ngắn ngáp dài vì mãi chưa được bay, nhìn ra ngoài cửa thì trời đã ngả dần về đêm. Đang lướt Facebook với chút Wifi giờ chót thì thấy có tin nhắn Zalo. Của mẹ, mẹ chỉ biết dùng Zalo vì được tôi chỉ cho trước khi đi.
“Con à, mẹ đây, con sắp bay chưa?”
Lúc đó, tôi chỉ muốn cái thông báo “chuyến bay mang số hiệu *gì gì đó* sẽ rời tới 19 giờ” bị lỗi rồi người ta mời chúng tôi ra cửa bay luôn. Tôi biết nhớ nhà là gì rồi.
Chúng tôi nợ tiếng Việt một hàm ơn, để chúng tôi có thể chia sẻ với nhau niềm yêu thương quan tâm mà không cần phải nói thẳng ra bao điều còn ngại ngùng: Con yêu ba/con yêu mẹ nhiều lắm, con nhớ nhà lắm, con muốn về gặp mọi người quá.
“Con ơi, mẹ đây, tuần này con có về thăm nhà không?”
“Ba ơi, con đây, cả nhà đã ăn tối chưa”
“Con ơi, ba đây, con đang làm bài à?
Từng cái danh từ nhân xưng, từng cái “đây” thể hiện sự hiện diện một cách thân tình, rồi hậu tố không, à, chưa với những tông giọng trầm trầm tình cảm khiến mỗi câu, mỗi từ Tiếng Việt được thốt ra chan chứa sự luyến thuộc mà ngôn ngữ thế giới không thể truyền tải trọn vẹn tới những người con đất Việt.
Tôi không quên được một buổi chiều trong bệnh viện khi vào thăm người thân. Lúc ra về, khi đi qua khoa Nhi, tôi thấy một chiếc giường nhỏ đầy người vây quanh: một ông bố, bà mẹ, vài y tá và bác sĩ. Ông bố quỳ dưới chân giường, nhìn đứa trẻ rồi nói: “Con ơi, ba nè, con dậy đi con?”. Người mẹ bần thần bên giường, mấy cô y tá buồn bã, tôi không dám đứng nhìn, nghèn nghẹn nước mắt. Một nỗi buồn sao mà Việt Nam quá, hay chỉ có người Việt Nam sẽ hỏi vậy? “Dậy đi con, ba con thương con lắm đó, dậy đi rồi cả nhà lại đi chơi…”
Tôi biết mình là người Việt Nam khi những cuộc trò chuyện đời thường cũng gieo vào mỗi người cảm giác thân thuộc và tình yêu gia đình, để rồi chúng ta bật khóc lúc nào không hay. Sự nhạy cảm mong manh ấy, chúng ta có quyền tự hào vì nó.
Theo CafeF
Bạn có biết, tiếng Pháp không những được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Chính phủ, trong giảng dạy ở trường và các loại sách báo, mà còn thâm nhập vào cả đời sống thường ngày của người dân Việt?
Sự ra đời của chữ Quốc ngữ và sức ảnh hưởng của tiếng Pháp
Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mụcAlexandre de Rhodes (tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La năm 1651), với mục đích dùng ký tự Latinh làm nền tảng cho tiếng Việt.
“Latinh hóa” chữ Việt ngày càng được phổ biến để trở thành Quốc ngữ, chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của ngôn ngữ Tây phương, nổi bật nhất là văn hóa Pháp.
Khi chiếm được ba tỉnh Nam Bộ, người Pháp đã nắm trong tay một công cụ vô cùng hữu hiệu để truyền bá văn hoá đồng thời chuyển văn hoá Nho giáo sang văn hoá Phương Tây. Tờ Gia Định Báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam sau này.
Đối với người bình dân, việc tiếp nhận tiếng Pháp đến một cách rất tự nhiên. Người ta có thể nói “Cắt tóc, thui dê” để chỉ ngày Quốc khánh Pháp 14/7, Quatorze Juillet. Để tả con cọp, người ta có thể dài dòng văn tự: “tí ti giôn, tí ti noa, lủy xực me-xừ, lủy xực cả moi”. Diễn nôm câu này là một chút màu vàng (jaune), một chút màu đen (noir), nó ăn thịt ông (monsieur), nó ăn thịt cả tôi (moi).
Hay những đại danh từ nhân xưng như toa (anh, mày – toi), moa hay mỏa (tôi, tao – moi), en hay ẻn(cô ấy, chị ấy – elle), lúy hay lủy (anh ấy, hắn – lui), xừ hay me-xừ (ông, ngài – monsieur)… Học trò trường Tây, những nhà trí thức khoa bảng hay cả những người tỏ ra “thời thượng” ngày xưa thường dùng những đại từ này. Cũng vì thế có một câu mang tính cách châm chọc: “Hôm qua moa đi xe lửa, buồn tiểu quá nên moa phải đái trên đầu toa” (toa ở đây có 2 nghĩa: toa xe lửa nhưng cũng có ý là toi (anh) trong tiếng Pháp).
Nhà ga cũng có xuất xứ từ tiếng Pháp gare. Ga là công trình kiến trúc làm nơi cho tàu hoả, tàu điện hay máy bay đỗ để hành khách lên xuống hoặc để xếp dỡ hàng hoá. Từ sự vay mượn này ta có thêm những từ ngữ như sân ga, trưởng ga, ga chính, ga xép…
Nhà ga ở Sài Còn xưa. (Ảnh: HinhanhVietNam.com)Có những từ ngữ xuất xứ từ tiếng Pháp nhưng vì lâu ngày dùng quen nên người ta cứ tưởng chúng là những từ “thuần Việt”. Chẳng hạn như cao su (caoutchouc), một loại cây công nghiệp được người Pháp du nhập vào Việt Nam qua hình thức những đồn điền tại miền Nam.
Nhà băng (banque) là một chữ quen dùng trong ngôn ngữ hàng ngày, còn xà bông cũng là loại chữ dùng lâu ngày thành quen nên ít người để ý xuất xứ của nó là từ tiếng Pháp, savon.
Thuật ngữ quân sự chỉ những công sự xây đắp thành khối vững chắc, dùng để phòng ngự, cố thủ một nơi nào đó được gọi là lô-cốt có xuất xứ từ blockhaus. Ngày nay, chữ lô cốt còn được dùng chỉ những nơi đào đường, thường được rào chắn, vây kín mặt đường, cản trở lưu thông.
Xưa kia cảnh sát được gọi qua nhiều tên: mã-tà (xuất xứ từ tiếng Pháp matraque, có nghĩa là dùi cui),sen đầm (gendarme), phú-lít (police), ông cò (commissaire)… Lực lượng thuế quan (ngày nay gọi là hải quan) được gọi là đoan (douane), lính đoan còn có nhiệm vụ đi bắt rượu lậu là một mặt hàng quốc cấm thời Pháp thuộc.
Sự vay mượn tiếng Pháp trong lĩnh vực ẩm thực
Chúng ta thấy ngôn ngữ Việt vay mượn từ tiếng Pháp trong rất nhiều lĩnh vực. Về ẩm thực, tiếng Việt thường mượn cả cách phát âm đến tên của các món ăn có xuất xứ từ phương Tây. Vào nhà hàng, người phục vụ đưa ra mơ-nuy (thực đơn – menu) trong đó có những món như bít-tết (chữ bifteck của Pháp lại mượn từ nguyên thủy tiếng Anh – beefsteak), những thức uống như bia (rượu bia – bière),rượu vang (rượu nho – vin)…
Về thịt thì có xúc-xích (saucisse), pa-tê (paté), giăm-bông (jambon), thịt phi-lê (thịt thăn, thịt lườn – filet). Các món ăn thì có ra-gu (ragout), cà-ri (curry),… Khi ăn xong, khách xộp còn cho người phục vụ tiền puộc-boa (tiền thưởng – pourboire). Ngày nay từ boa hay bo được dùng phổ biến với ý nghĩa cho tiền thưởng, hay còn gọi là tiền phong bao hoặc tiền phục vụ.
Từ rất lâu, ở Sài Gòn xuất hiện các loại bánh mì theo kiểu Pháp, miền Bắc lại gọi là bánh tây với hàm ý du nhập từ Pháp. Có nhiều loại bánh đặc biệt như bánh mì ba-ghét (loại bánh mì nhỏ, dài – baguette), bánh pa-tê-sô (một loại bánh nhân thịt, ăn lúc nóng vừa dòn vừa ngon – pathé chaud), bánh croát-xăng (hay còn gọi là bánh sừng bò – croissant).
Người Sài Gòn thường ăn sáng với bánh mì kèm theo nhiều kiểu chế biến trứng gà như ốp-la (trứng chỉ chiên một mặt và để nguyên lòng đỏ – oeuf sur le plat), trứng ốp-lết (trứng tráng – omelette) hoặc trứng la-cóc (trứng chụng nước sôi, khi ăn có người lại thích thêm một chút muối tiêu – oeuf à la coque).
Món không thể thiếu trong bữa ăn sáng là cà phê (café). Cà phê phải được lọc từ cái phin (filtre à café) mới đúng điệu.
Người phương Tây dùng nhiều sữa và các sản phẩm của sữa nên đã đưa vào ngôn ngữ tiếng Việt những từ ngữ như bơ (beurre), pho-mát (f-romage), kem (crème…
Nông phẩm thì có đậu cô-ve (còn gọi tắt là đậu ve – haricot vert), đậu pơ-tí-poa (đậu Hòa Lan có hột tròn màu xanh – petits-pois), bắp sú (bắp cải – chou), súp-lơ (bông cải – chou-fleur), xà lách (salade),cải xoong (còn gọi là xà lách xoong – cresson), cà-rốt (carotte), ác-ti-sô (artichaut)…
Về trang phục
Nét trẻ trung, thanh lịch pha chút hiện đại trong thời trang của phụ nữ Sài Gòn xưa. (Ảnh: Saotoday)Ngôn ngữ về trang phục cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Pháp. Bình thường hàng ngày người ta mặc áo sơ-mi (chemise), cổ tay có cài khuy măng-sét (manchette). Khi đi tiệc tùng hoặc hội họp thì mặc áo vét (vest) hay bộ vét-tông (veston) kèm theo chiếc cà-vạt (cravate) trên cổ áo sơ mi. Trời hơi lạnh có thể mặc bên trong áo vét một chiếc gi-lê (gilet) và hai tay mang găng (gants) cho ấm.
Ngay cả quần áo lót bên trong cũng mượn từ tiếng Pháp. Phụ nữ trên thì mang xú-chiêng (nịt ngực – soutien-gorge) dưới thì có xì-líp (slip). Nam giới thì mặc áo may-ô (maillot) bên trong áo sơ-mi. Mặc quần thì phải có xanh-tuya (dây nịt – ceinture) và khi trời nóng thì mặc quần sóc (quần ngắn, tiếng Pháp là short được mượn từ tiếng Anh shorts).
Trang phục có thể được may từ các loại cô-tông (vải bông – coton) hoặc bằng len (làm từ lông cừu – laine). Trên đầu có mũ phớt (feutre, một loại mũ dạ), mũ be-rê (béret, một loại mũ nồi)… dưới chân là đôi dép săng-đan (sandales), sau này người Sài Gòn lại chế thêm dép sa-bô (sabot nguyên thủy tiếng Pháp là guốc).
Về âm nhạc
Tiếng Tây cũng đi vào âm nhạc. Từ điệu valse, tango… đến đàn piano (dương cầm), violon (vĩ cầm),kèn harmonica (khẩu cầm)… Ở các đăng-xinh (khiêu vũ trường – dancing) luôn có ọc-két (ban nhạc – orchestre) chơi nhạc và xuất hiện một nghề mới gọi là ca-ve (gái nhảy – cavalière). Ngày nay người ta dùng từ ngữ ca-ve với ý chỉ tất cả những cô gái làm tiền, khác hẳn với ý nghĩa nguyên thủy của nó.
Về xe cộ
Góc đường Hai Bà Trưng – Hiền Vương ( Võ Thị Sáu) những năm 1960. (Ảnh: tachcaphe.com)Người Pháp khi đến Việt Nam mang theo cả chiếc ô-tô (xe hơi – auto, automobile). Xe xưa thì khởi động bằng cách quay ma-ni-ven (manivelle) đặt ở đầu xe, sau này tân tiến hơn có bộ phận đề-ma-rơ(khởi động – démarreur). Sau khi đề (demarrer), xe sẽ nổ máy, sốp-phơ (người lái xe – chauffeur) sẽ cầm lấy vô-lăng (bánh lái – volant) để điều khiển xe… Về cơ khí thì người Sài Gòn dùng các từ ngữ như cờ-lê (chìa vặn – clé), mỏ-lết (molete), đinh vít (vis), tuốc-nơ-vít (cái vặn vít – tournevis), công-tơ(thiết bị đồng hồ – compteur), công tắc (cầu dao – contact)…
Về chiếc xe đạp cũng có nhiều điều lý thú. Chiếc xe đạp trong ngôn ngữ Việt mượn rất nhiều từ tiếng Pháp. Trước hết, phía trước có guy-đông (thanh tay lái – guidon), dưới chân có pê-đan (bàn đạp – pedale), săm (ruột bánh xe – chambre à air) và phía sau là bọc-ba-ga (để chở hàng hóa – porte-bagages).
Chi tiết các bộ phận trong xe đạp cũng… rất Tây. Có dây sên (dây xích – chaine), có líp (bộ phận của xe đạp gồm hai vành tròn kim loại lồng vào nhau, chỉ quay tự do được theo một chiều – roue libre), rồiphanh (thắng – frein) ở cả bánh trước lẫn bánh sau. Thêm vào đó còn có các bộ phận bảo vệ nhưgạc-đờ-bu (thanh chắn bùn – garde-boue) và gạc-đờ-sên (thanh che dây xích – garde-chaine).
Mỗi chiếc xe đạp xưa còn trang bị một ống bơm (pompe) để phòng khi lốp xe xuống hơi. Bên cạnh đó người ta gắn một chiếc đy-na-mô (dynamo – bộ phận phát điện làm sáng đèn để đi vào ban đêm).
Ngày xưa, đi xe đạp không đèn vào ban đêm rất dễ bị phú-lít thổi phạt nên nếu xe không đèn, người lái phải cầm bó nhang thay đèn. Sài Gòn xưa có các nhãn hiệu xe đạp mổi tiếng như Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling…
Đó là những chiếc xe đã tạo nên nền “văn minh xe đạp” của những thế hệ trước và một nền “văn hóa xe đạp” còn lưu lại trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Sài Gòn xưa.
Nguồn tin: Theo saigontrongtoi.net
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn