Nếu như đem sinh mệnh con người so sánh với mùi hương thơm ngát trong lá trà, thì sự tu hành tựa như một ấm nước sôi nóng bỏng. Lá trà chỉ khi chìm nổi trong nước sôi, trải qua quá trình thẩm ngấm, mới có thể phóng xuất ra mùi hương thơm ngát.
Con người cũng vậy, chỉ có tu luyện, tích đức hành thiện, mới có khả năng đề cao cảnh giới tư tưởng của mình, đồng thời lưu lại tiếng thơm cho đời.
Tục ngữ có câu: “Bảo kiếm được rèn từ lửa đỏ, hương mai được dưỡng từ tuyết sương”. Mùa đông tới, trăm hoa tàn héo, chỉ có hoa mai giữa trời băng tuyết mà khai nở. Cũng trong cái gió lạnh sương tuyết ấy, mùi hương của hoa mai mới được thai nghén xuất lai.
Người bình thường thưởng thức một cành mai đẹp, đều hết mực tán thán, nhưng đâu thể cảm nhận được mùi hương ấy đến từ bao cay đắng cùng gian khổ. Mùi thơm ấy, là từ vô số lần đón gió đạp tuyết, trải qua rét lạnh mới phóng xuất ra.
Trước đây có một chàng trai trẻ, bởi cuộc sống gặp nhiều trắc trở, nên luôn cảm thấy buồn chán và thất vọng. Một hôm, anh ta tìm đến ngôi chùa thỉnh giáo cao tăng Thích Viên.
Anh ta uể oải nói với vị cao tăng: “Một kẻ vô tích sự giống như tôi, sống trên đời liệu có thể làm được việc gì chứ?”.
Hòa thượng Thích Viên nghe xong, sắc mặt không hề thay đổi, bình thản lấy ra một nắm trà, rồi căn dặn tiểu hòa thượng trong chùa: “Vị thí chủ đây từ xa đến, con hãy đi mang một bình nước ấm tới đây”.
Chỉ trong chốc lát, tiểu hòa thượng đã mang đến một bình nước ấm. Thích Viên lấy một nhúm trà bỏ vào trong chén, sau đó lấy nước ấm đổ vào trong chén trà đặt trước mặt vị khách trẻ và nói: “Thí chủ, mời dùng trà”.
Sau khi chàng trai trẻ tuổi uống được hai ngụm thì lắc đầu nói: “Đây là trà gì vậy? Một chút hương vị trà cũng không có”.
Thích Viên cười nói: “Đây là trà Thiết Quan Âm, sao lại không có hương vị gì được”. Rồi vị cao tăng lại căn dặn tiểu hòa thượng: “Con hãy đi đun một ấm nước sôi mang tới đây”.
Sau khi nước sôi đưa đến, Thích Viên hòa thượng lại lấy ra một cái chén khác, bỏ một nhúm trà vào trong, rồi rót một ít nước sôi vào trong chén. Chàng trai nhìn những lá trà chìm nổi bên trong chén, rồi bỗng cảm nhận thấy một mùi hương thơm ngát nhẹ nhàng bốc ra. Anh ta nhịn không được, định uống một ngụm, thì Thích Viên hòa thượng ngăn lại: “Thí chủ chờ một chút”.
Nói xong, hòa thượng lại đổ thêm một ít nước sôi vào trong chén, cùng theo đó, mùi hương trà nhẹ nhàng tràn ngập căn phòng làm say lòng người. Cứ như vậy, Thích Viên rót vào trong chén trà 5 lần nước sôi nữa, chỉ một chén trà mà khiến cả căn phòng tràn ngập mùi hương thơm ngát.
Thích Viên hòa thượng cười hỏi: “Thí chủ có biết vì sao cùng một loại trà mà hương vị lại không giống nhau như vậy không?”.
Chàng trai suy nghĩ một chút rồi trả lời: “Là do một chén dùng nước ấm để hãm, còn chén kia dùng nước sôi”.
Thích Viên cười cười nói: “Dùng nước khác nhau, thì hương vị cũng khác nhau. Dùng nước ấm pha trà, thì những lá trà sẽ nổi lên phía trên, như thế làm sao có thể tạo ra được hương trà đây? Nhưng dùng nước sôi để ngâm lá trà, đổ vào từng chút từng chút một, mới kích phát được mùi hương trong lá trà, tựa như mưa xuân thanh tĩnh, nắng hạ rừng rực, gió thu nồng nàn, cùng đông sương mát lạnh”.
Một người không hiểu được tu hành, cũng giống như nước ấm không thấm được lá trà vậy, sẽ không bao giờ có thể giải phóng được mùi hương thấm đượm lòng người. Không có ý chí kiên nhẫn và sự tôi luyện nội tâm, thì cũng không cách nào phóng xuất ra ánh quang rực rỡ trong sinh mệnh con người.
Tuệ Tâm biên dịch
Trong “Đại Minh hội điển” của nhà Minh có ghi chép lại như sau: Năm 1585 phát sinh đại hạn, đến trong giếng cũng không có nước. Hoàng đế Vạn Lịch đã đích thân dẫn hơn 4000 văn võ bá quan đến Thiên Đàn cầu mưa.
Ở đây ông đã đọc huấn từ rằng, thiên thời đại hạn, hẳn là kết quả của việc bản thân mình khuyết thiếu đức hạnh, cũng như các tham quan ô lại khắp nơi bóc lột bách tính, mạo phạm đến thiên thượng. Vì thế nhất định phải thay đàn đổi dây, trừng trị ác nhân, phổ biến chính trị nhân từ. Trong “Thần tông thực lục” có ghi chép lại rằng, chưa đầy một tháng sau, đã xuất hiện một trận mưa đá cực lớn kéo dài liên tục hai ngày.
Trong “Thế tông thực lục” của triều đại nhà Thanh ghi lại: Một trong những đế vương anh minh nhất trong lịch sử Trung Quốc – Ung Chính đã nhiều lần phê chỉ thị giảng giải về sự ứng nghiệm của đạo lý “thiên nhân cảm ứng”.
“Phàm là nơi nào đó bị hạn hán, lũ lụt đều là do nhân sự tạo thành, hoặc là triều đình chính vụ không tốt, hoặc Tổng đốc Tuần phủ đại nhân không làm tròn trách nhiệm, hoặc là Thái Thú tri huyện không xứng chức. Hay là một chỗ nào đó trong vùng, nhân tâm dối trá không đủ phúc hậu. Những việc như thế này chính là mạo phạm thiên thượng, mà nhận phải tai ương”.
Có thể thấy theo quan niệm của người xưa, thiên tai nhân họa là có mối liên hệ chặt đến đức hạnh của người cầm quyền. Gặp phải thiên tai, nhất định phải cầu nguyện, đây là phương thức mà từ bách tính cho đến hoàng đế đều sử dụng trong suốt 5.000 năm lịch sử Trung Hoa.
Trong triều đại nhà Thanh, cầu nguyện đã trở thành một loại quy định. “Thanh triều văn hiến thông khảo” có ghi lại: “Triều đình ta phàm gặp hạn hán hay lũ lụt, thì một là phải cầu nguyện, hai là phải trị tham quan”.
Trong “Thanh Thánh Tổ thực lục” có một đoạn luận thuật của hoàng đế Khang Hy, với đại ý là: “Ta đã thượng vị 56 năm, trong đó suốt 50 năm ta đều cầu nguyện mưa thuận gió hòa. Mỗi khi có hạn hán, ta đều cầu nguyện ở trong cung, quỳ gối ba ngày đêm, chỉ ăn các món thanh đạm, đến dầu và tương cũng không có, để biểu đạt thành tâm chay tịnh của mình.
Ngày thứ tư ta đi bộ đến Thiên Đàn cầu nguyện, thì mây mưa bất ngờ kéo đến, ta đi bộ trở về, trên mặt đất nước ngập qua giày. Sau này, người của các tỉnh lên kinh trình tấu, ta mới biết ngày hôm đó, các tỉnh trong cả nước đều có mưa. Cho nên ta nói, thật sự thành tâm, thiên địa nhất định sẽ có cảm ứng”.
Trong những năm Khang Hy, đã có 3 lần xảy ra động đất cấp 8 trở lên. Trong đó trận động đất năm 1679 ở Hà Bắc ảnh hưởng tới cả kinh thành nên triều đình nhà Thanh đặc biệt coi trọng. Trong “Tam hà huyền chí” có ghi chép chi tiết về trận động đất như sau: “Ngày 28/07 có trận địa chấn, từ Tây Bắc đến Đông Nam, như thuyền nhỏ gặp sóng lớn, người không thể đứng dậy. Tường nhà đổ sập, tứ phía la liệt, rất nhiều người bị chết”.
Lần động đất này xảy ra đúng thời điểm Hoàng đế Khang Hy đang bận rộn bình định loạn Tam phiên. Vì thế ông đã tranh thủ thời gian viết chiếu lệnh cứu tế, đồng thời cáo thị với quần thần rằng: “Trận địa chấn là để cảnh báo tình trạng liên cung bất hòa, chính trị bất ổn”.
Thái độ của Hoàng đế Khang Hy rất thành tâm, ông tìm ra 6 mục “tai hại” của quan lại, cho rằng đây là nguyên nhân dẫn đến tai họa, và lệnh cho Bộ lại lập pháp nghiêm cấm, để tận trừ tệ nạn. Hoàng đế Khang Hy chỉ ra: “Chỉ cần có một trong số này, thì đều gây nên tai họa”.
Nguồn tin: Lê Hiếu biên dịch
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn