VIỆT NAM LÀM GÌ NẾU TRUNG QUỐC LẬP VÙNG CẤM BAY ADIZ?

Thứ hai - 15/12/2014 09:19

VIỆT NAM LÀM GÌ NẾU TRUNG QUỐC LẬP VÙNG CẤM BAY ADIZ?

Việt Nam không thể “thoái thác trách nhiệm” lên tiếng nếu Trung Quốc có kế hoạch thiết lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông và việc “thoái thác trách nhiệm” ấy là “không thể, không được phép”, theo ý kiến một nhà phân tích tình hình khu vực từ Hà Nội.
Trao đổi với BBC hôm 13/12/2014, Tiến sỹ Khoa học Lương Văn Kế, nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế từ Đại học Quốc gia Hà Nội nói:
 
"Như thông tin mà chúng ta được biết, Trung Quốc đã bí mật triển khai cái gọi là Vùng nhận diện Phòng không, cái đó tôi nghĩ là nếu Việt Nam không nhanh chóng lên tiếng cùng các lực lượng bảo vệ hay yêu chuộng hòa bình khác, kể cả các cường quốc bên ngoài như Mỹ hay Nhật Bản...
 
"Thì Việt Nam gần như là thoái thác trách nhiệm, mà Việt Nam là nước bị ảnh hưởng lớn nhất mà mình lại thoái thác gần như là điều không thể, không được phép.
 
"Cho nên tôi nghĩ thời điểm này là thời điểm Việt Nam không thể chậm trễ hơn được nữa, nó (là) tình thế bắt buộc...
Nếu không nhanh chóng lên tiếng một cách kịp thời như vậy, thì chắc chắn Việt Nam sẽ không có khả năng để đòi lại quyền hợp pháp của mình ở Biển Đông.
 
"Chuyện ADIZ đã từng diễn ra ở Biển Hoa Đông liên quan đến Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc rồi, thì những hành xử như vậy của Trung Quốc thì kịch bản các nước phải như thế nào, tôi nghĩ Việt Nam chắc chắn cũng không ở ngoài.
 
"Chỉ có điều là cái tỷ phần hay tỷ lệ nghiêm trọng ảnh hưởng đến Việt Nam sẽ cao hơn so với các nước kia, bởi vì các nước kia, Nhật Bản chẳng hạn chỉ là phần phía Nam của lãnh thổ Nhật Bản kéo dài mấy nghìn km thì cũng không phải là ảnh hưởng quá lớn,
"Nhưng đối với Việt Nam, toàn bộ mặt tiền Biển Đông của chúng ta (Việt Nam) kéo dài, toàn bộ diện tích Biển Đông 1 triệu km2, thì ảnh hưởng, đấy là không gian sinh tồn của mình trong tương lai, cho nên tôi nghĩ nếu Việt Nam không phản ứng quyết liệt vụ này thì sẽ rất là khó khăn".
 
 
Thao tác đầu tiên”
 
Nhận xét của ông Kế được đưa ra sau khi Việt Nam mới đây đã đệ trình Tòa án Trọng tài Thường trực (PCA) của Quốc tế một bản Tuyên bố chính thức về các quyền của Việt Nam ở Biển Đông để lưu ý cơ quan trọng tài này về các quyền của mình trong vụ kiện chủ quyền ở Biển Đông giữa Philippines với Trung Quốc.
 
Bình luận về ý nghĩa Việt Nam chọn thời điểm này để liên hệ với Tòa án quốc tế, nhà phân tích nói:
 
Có tin nói Trung Quốc đã 'bí mật thiết lập' vùng nhận dạng phòng không ADIZ trên Biển Đông.
 
"Đây là một tính toán của Việt Nam mà tôi nghĩ là nếu không nhanh chóng lên tiếng một cách kịp thời như vậy, thì chắc chắn Việt Nam sẽ không có khả năng để đòi lại quyền hợp pháp của mình ở Biển Đông...
 
"Tôi nghĩ trì hoãn tới thời điểm này Việt Nam có lẽ cũng đã tính toán kỹ, nhưng về tính toàn diện của yêu sách của Việt Nam, tôi nghĩ cũng chưa phải, bởi vì chắc chắn đây chỉ là thao tác đầu tiên mang tính chất đánh động thôi,
 
"Chứ chưa hẳn đã là một hệ thống pháp lý đầy đủ mà Việt Nam muốn đưa lên cho (Tòa án) Trọng tài Quốc tế.
"Thế còn về thời điểm tại sao lại vào hiện nay, tôi nghĩ có thể liên quan đến thái độ của Trung Quốc".
 
Trong bản Tuyên bố gửi Tòa án Trọng tài Thường trực quốc tế, Việt Nam đã thừa nhận cơ quan này có quyền tài phán với trường hợp của Philippines, điều đã bác bỏ quan điểm của Trung Quốc.
 
Ngoài ra, Việt Nam đề nghị Tòa án “quan tâm đúng đắn” tới các quyền và lợi ích của Việt Nam, cũng như cho hay Việt Nam bác bỏ Đường 9 đoạn (hay Bản đồ đường Lưỡi bò) của Trung Quốc trên Biển Đông và xem tuyên bố đơn phương này của Trung Quốc là không có “'cơ sở pháp lý”.
 
 
Sai lầm hoàn toàn”
 
Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng thời điểm của động thái đưa ra tuyên bố “là quá muộn”, ông nói:
"Vào thời điểm này, theo quan điểm của tôi, Việt Nam đưa ra cũng hơi muộn, chứ không phải là sớm sủa gì. Đây chắc chắn là một sự tính toán rất kỹ lưỡng và trong tình thế Việt Nam không thể nào phản ứng khác được...
 
Nếu nghe theo, cùng khai thác với Trung Quốc, thì thực ra chúng ta đã sai lầm hoàn toàn.
 
Ông Lương Văn Kế
 
"Chủ trương có thể can thiệp hay đệ trình các yêu cầu, yêu sách của mình lên Tòa án Trọng tài Quốc tế đó là chuyện Việt Nam cũng đã có chủ trương, chỉ có điều cho đến bây giờ có thể nói là một sự tính toán rất kỹ lưỡng.
 
"Thứ hai là có thể có những kết quả thương thảo, những vấn đề diễn biến phức tạp về giải quyết tranh chấp chủ quyền của Philippines với Trung Quốc liên quan đến Trường Sa.
 
"Thì nếu Việt Nam không lên tiếng, trong quá trình thương thảo, nếu như Tòa án Trọng tài Quốc tế mà lại có những quyết định nào đó có lợi cho một trong hai bên, bất kể là Trung Quốc hay Philippines hay một nước nào khác, Việt Nam lại không có tiếng nói, thì chắc chắn Việt Nam sẽ thua thiệt".
 
Trong cuộc trao đổi hôm thứ Bảy với BBC, Tiến sỹ Khoa học Lương Văn Kế cũng bình luận và lưu ý về hai việc mà ông gọi là “sách lược”, “'chiêu bài” của Trung Quốc trong đối phó với Việt Nam trên Biển Đông, mà theo ông là việc cố thuyết phục Việt Nam “cùng nhau khai thác” ở những khu vực địa điểm có tranh chấp hoặc đã đang bị biến thành vùng tranh chấp, bên cạnh việc tạo áp lực để tránh đưa các vụ việc tranh chấp đó ra quốc tế hay khu vực.
 
"Nếu nghe theo, cùng khai thác với Trung Quốc, thì thực ra chúng ta đã sai lầm hoàn toàn, quan điểm của tôi là không chấp nhận, một khi mà Trung Quốc không từ bỏ quan điểm chủ quyền thuộc về Trung Quốc, thì không thể cùng nhau khai thác được", nhà phân tích nói với BBC.
 
 
--------------------------------------
 
 
 
ADIZ
(AIR DEFENSE IDENTIFICATION ZONE)
 
Wiki, nguồn gốc của ADIZ :

VÙNG NHẬN DẠNG PHÒNG KHÔNG (ADIZ) LÀ GÌ ?

 

 
TTO - Theo một chuyên gia hàng không VN, vùng nhận dạng phòng không (tiếng Anh là Air Defense Identification Zone - ADIZ) là vùng nằm ngoài không phận đương nhiên của một quốc gia và do quốc gia đó tự đặt ra, vì lý do an ninh quốc gia hoặc lý do nào đó.
.....
Rất nhiều quốc gia, như Mỹ, Canada… đã thiết lập ADIZ trong vùng không phận quốc tế tiếp giáp với quốc gia khác. Việc tuyên bố ADIZ là hoàn toàn đơn phương và không dựa trên căn cứ pháp lý và thương thuyết với nước láng giềng.
Vì là đơn phương nên các quốc gia quy định ADIZ sẽ có các yêu cầu bắt buộc với các máy bay dân sự khi bay qua khu vực này. Nhưng nhìn chung đều phải tuân thủ các yêu cầu chung, chẳng hạn như các máy bay khi vào ADIZ đều phải gửi kế hoạch bay trước; phải thiết lập liên lạc hai chiều trả lời trong thời gian sớm nhất và chính xác nhất với nước quản lý ADIZ; máy bay phải được nhận dạng, thông báo vị trí, thiết lập liên lạc hai chiều, lắp thiết bị nhận dạng radar thứ cấp, khi bay qua các điểm báo cáo bắt buộc đều phải báo cáo với cơ quan đang quản lý ADIZ, tuân thủ hành lang bay mà nước đó quy định...
Nếu không gửi báo cáo kế hoạch bay mà xuất hiện trong khu vực ADIZ, máy bay dân sự sẽ phải đối mặt với việc bị máy bay quân sự của nước lập ra ADIZ yêu cầu nhận dạng và buộc phải rời khỏi khu vực này ngay lập tức và chịu những biện pháp chế tài khác. Những biện pháp chế tài này cũng được các nước công bố khi thông báo vùng ADIZ.
Vùng ADIZ hiện nay mà Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đang tranh cãi nằm trùng với các đường bay dân sự mà nhiều hãng hàng không quốc tế có đường bay từ Việt Nam (từ TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng...) sang Nhật Bản, Hàn Quốc và nối chuyến sang Mỹ.
Tuy nhiên theo chuyên gia này, các chuyến bay quốc tế từ/đến VN đều không bị ảnh hưởng vì theo quy định trước đây, các chuyến bay này đều phải bay qua không phận của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc nên các hãng hàng không đều phải gửi trước kế hoạch bay và những thông tin bắt buộc cho nhà chức trách các quốc gia này.
LÊ NAM
 
----------------------------------------
 
 
 
14/12/2014
bauxitevn vào lúc 08:34
 
Tuyên bố về hai vụ án tử hình
Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải
 
Kính gởi:
- Toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước
- Chính phủ và Quốc hội các quốc gia dân chủ
- Các tổ chức nhân quyền quốc tế và các hãng thông tấn hoàn vũ
- Các cơ quan tư pháp tại các nước văn minh.
 
 
            Từ 6-7 năm nay, có hai tù nhân là Nguyễn Văn Chưởng (sn 1983) và Hồ Duy Hải (sn 1985), bị tòa án sơ thẩm lẫn phúc thẩm Việt Nam kết án tử hình, đã liên tục kêu oan và sống trong khắc khoải. Gia đình họ cũng phải bỏ công ăn việc làm, thậm chí tán gia bại sản để đi đòi công lý cho người thân trong đau khổ và tuyệt vọng. Nỗi bất hạnh tột cùng này lên đến đỉnh điểm khi bản án tử được thông báo sẽ thi hành cuối năm nay (đối với NVC) và có thể đầu năm tới (đối với HDH). Tin tức này cũng khiến công luận và báo chí đòi xét lại toàn bộ hai vụ án, vì có vô số điều phi lý, mâu thuẫn, mờ ám, oan ức do chính các luật sư, gia đình lẫn công luận nêu ra.
 
 
            1- Sự kiện
 
            a- Vụ án Nguyễn Văn Chưởng.
 
            Đây là việc 1 thiếu tá công an ở Hải Phòng bị giết chết đêm 14-7-2007. Vụ án có 3 bị cáo gồm Vũ Đoàn Trung, ở Hải Phòng, nhận tội, 23 năm tù giam; Đỗ Văn Hoàng, ở Hải Phòng, không nhận tội, tù chung thân; và Nguyễn Văn Chưởng, ở Hải Dương (bị Vũ Đoàn Trung tố cáo là chủ mưu), không nhận tội, tử hình.
 
            Tháng 7 năm ấy, bị cáo Nguyễn Văn Chưởng cùng với em trai đang lao động ở Hải Phòng. Tuy nhiên, cả 2 không có mặt tại đó vào thời điểm xảy ra án mạng (vì họ thường về thăm nhà ở thôn 1, xã Bình Dân, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương mỗi cuối tuần). Nhiều người thân lẫn người dân trong thôn đã làm chứng về sự có mặt của 2 anh em đêm 14-7-2007, xa phạm trường tới 40km. Thế nhưng lời khai của các nhân chứng bị cơ quan điều tra hoặc xuyên tạc (như bà Nguyễn Thị Bích, mẹ bị cáo) hoặc dùng tra tấn để phải rút lại (như chị Nguyễn Thị Bảy, vợ bị cáo hoặc nhiều người dân trong làng). Các nhân chứng ấy lại không được ghi lời khai trong bản án cũng chẳng được triệu tập đến tòa trong ngày xử.
 
            Nhiều tình tiết cho thấy công an đã áp đặt tội cho Nguyễn Văn Chưởng ngay từ khi khởi sự điều tra. Đó là bắt giam Nguyễn Trọng Đoàn (em của Chưởng) khi anh này đem đơn của mẹ kêu oan cho con (10-08-2007), sau đó kết án anh 2 năm tù vì “che giấu tội phạm”. Đó là tra tấn dã man bị cáo Chưởng và nhiều chứng nhân để hủy bằng cớ ngoại phạm của anh. Đó là trong hồ sơ vụ án, giấy tờ giám định thương tích của Chưởng, lời khai của nhiều nhân chứng không có; chữ ký của Đoàn bị giả mạo; lời khai của hai bị cáo Vũ Toàn Trung và Trần Thị Lan Phương (người yêu) rất mâu thuẫn nhau; yêu cầu của Chưởng xin được khôi phục các cuộc điện thoại của mình tối ngày 14 và sáng ngày 15-07-2007 cũng bị lờ hẳn.
 
            Ngoài ra, cơ quan điều tra còn gây khó khăn và chậm trễ trong việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa (hơn 3 tháng so với qui định là 3 ngày) khiến nhiều cuộc thẩm vấn bị cáo và nhiều biên bản lời khai không có luật sư tham dự (hay nếu có thì công an chẳng giới thiệu là luật sư). Đến ngày xét xử, tòa án chẳng triệu tập nhân chứng nào cũng không cho các bị cáo đối chất với nhau. Chưởng kêu bị tra tấn nhục hình thì Hội đồng xét xử bác bỏ vì cho rằng trong biên bản không ghi điều đó.
 
            Nhận thấy vụ án bất công, gia đình thuê luật sư bào chữa thì được trả lời: “VN không có luật! Nếu thực hiện đúng luật thì chúng tôi có thể cãi cho ông. Luật như các nước khác thì chúng tôi cãi được còn VN không có luật nào cả. Luật của ‘chúng nó’ nên chúng tôi chịu thua” (RFA 3-12-2014). Sau đó, thấy bản án oan ức, thân phụ bị cáo cho biết: đã làm “đơn gửi văn phòng Chủ tịch nước hàng ngàn lá. Tôi cũng đã lên tận nhà riêng ông Trương Tấn Sang, đã gửi kể cả đơn bằng máu mà báo Người Đưa Tin chụp tung lên mạng… nhưng hiện nay không có phản hồi nào” (RFA 3-12-2014). Hiện cả gia đình và nạn nhân không làm đơn xin ân xá mà chỉ kêu oan vô tội
 
b- Vụ án Hồ Duy Hải.
 
            Đây là vụ 2 nữ nhân viên bưu điện bị hãm hiếp, giết chết đoạn cướp của ngày 14-01-2008 ở bưu cục Cầu Voi, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An mà chẳng có ai chứng kiến. Khoảng 3 tháng sau, cơ quan công an điều tra tỉnh bắt sinh viên Hồ Duy Hải. Rồi cả hai cấp tòa sơ thẩm và phúc thẩm đều tuyên án tử hình cho anh về các tội “giết người”, “cướp tài sản”.
 
            Tuy trong các bản khai, Hồ Duy Hải có thừa nhận tội lỗi, nhưng trước hai tòa và khi gặp thân nhân, anh đều kêu oan và cho biết mình đã bị tra tấn dã man nên phải ký nhận những bản khai viết sẵn. Trong phiên sơ thẩm ngày 28-11-2008, luật sư bào chữa Nguyễn Văn Đạt đã đưa ra đến 41 điểm sai phạm trong quá trình tố tụng và điều tra xét hỏi, như không có vật chứng (các dấu vân tay tại phạm trường chẳng phải là của bị cáo, con dao và tấm thớt gây nên cái chết cho 2 nạn nhân là đồ đi mua ở chợ về sau, mẫu máu và tóc lại để tới 5 tháng sau đó mới xét nghiệm), cũng không có nhân chứng xác nhận bị cáo có mặt tại phạm trường. Không chi tiết nào trong 41 chi tiết này được cơ quan điều tra giải đáp. Đến phiên xử tiếp, luật sư chỉ định Nguyễn Thành Quyết đã không bào chữa, lại còn “xin nhận tội” và “xin được hưởng” án chung thân giùm cho bị cáo !?!
 
Trong đơn đề nghị giám đốc thẩm viết ngày 11-01-2012, luật sư Trần Hồng Phong cũng chỉ ra vô số điểm mâu thuẫn (đặc biệt các lời khai của nhiều nhân chứng trong bút lục đã bị sửa chữa mà chẳng có chữ ký xác nhận của họ) để rồi nhận định: “Việc xét xử phiến diện, thiếu khách quan, bất chấp kết quả giám định khoa học, bỏ qua tình tiết ngoại phạm của bị cáo; kết luận trong bản án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm sai lệch hồ sơ vụ án; áp dụng pháp luật không đúng, xét xử sai tội danh”. Ngoài ra, sau khi vụ án xảy ra, nhiều tờ báo đã có bài viết, nêu nhiều tình tiết cho thấy hung thủ có thể là một kẻ khác và đã được cơ quan điều tra lấy lời khai ngay từ khi mới phát hiện vụ việc (như Thanh Niên ngày 16-01-2008; Người Lao Động ngày 17-01-2008). Thế mà toàn bộ các tình tiết ấy đã không nằm trong hồ sơ. Đó là chưa kể có mật lệnh cấm nhiều tờ báo không được viết gì về vụ Hồ Duy Hải !?!
 
            Sau khi có bản án tử hình, bị cáo Hải và gia đình không viết đơn xin ân xá (dù có bị ép) gửi đến Chủ tịch nước mà chỉ liên tục kêu oan vì họ cho rằng anh không có tội. Sáu năm qua, gia đình đã gửi đơn khắp nơi đề nghị giám đốc thẩm để giải oan cho anh, nhưng đều chỉ nhận được trả lời là “đã đúng người đúng tội” hay “hết thẩm quyền xử lý vụ án”. Bà mẹ còn tìm đến Quốc hội, nhà riêng của các lãnh đạo cao cấp để kêu cứu nhưng vô vọng. Thậm chí bà còn bị dọa đổ keo vào miệng để không la được nữa, còn dì ruột của Hải thì bị công an côn đồ đánh cho thâm tím tay chân khi hai bà căng băng-rôn biểu tình trước cổng Tòa án tối cao ngày 28-11-2014.
       
 
            2- Nhận định và tuyên bố
            Trước những vụ việc trên đây, các tổ chức xã hội dân sự nhận định và tuyên bố:
 
            a- Vì tại Việt Nam chỉ có tam quyền phân công chứ không phân lập, nền tư pháp hoàn toàn nằm dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, chi phối toàn diện của đảng Cộng sản, nhằm bảo vệ sự tồn tại của đảng bằng mọi giá chứ không nhắm bảo vệ tính mạng và quyền lợi người dân, nên nhiều vụ án oan khốc đã xảy ra xổ toẹt luật pháp, thách thức công luận, với những bức cung, nhục hình, với cáo trạng dối, chứng cứ giả, với âm mưu cá nhân và ý đồ tập thể... Ở hai vụ án trên, hai chàng thanh niên bị bắt một cách tình cờ (vì không có mặt tại hiện trường), kết tội chỉ bằng "lời khai" là chủ yếu, không cần những vật chứng, lý chứng, nhân chứng có sức thuyết phục. Cũng như “nhà nước được đẻ ra từ nòng súng”, lời khai đó đã  được đẻ ra từ đấm đá đòn vọt, theo thói "không có tội thì đánh cho có, có tội thì đánh cho chừa". Biện pháp dùng tra tấn, nhục hình để mớm cung, ép cung là chuyện chẳng ai lạ ở VN, khi mà cơ quan điều tra luôn cho mình có quyền hành động bí mật, loại bỏ vai trò luật sư trong tiến trình thẩm vấn.
 
 
            b- Việc công an nhất quyết cho hai bị cáo là thủ phạm dù giữa bản thân và gia đình họ với công an chẳng có tư thù, điều ấy có thể lý giải bằng hai cách.
 
Một là sau thời gian không tìm ra thủ phạm (vụ HDH) hoặc không tìm ra bằng chứng nơi kẻ bị coi là thủ phạm (vụ NVC), rồi bị áp lực đạt chỉ tiêu phá án để bảo vệ thành tích của đơn vị, công an đã bắt đại một người nào đó để kết tội hay kết tội đại một người nào đó đã bắt. Chẳng may HDH và NVC trở nên vật tế thần.
 
Hai là công an biết rõ thủ phạm thật của vụ việc, nhưng thủ phạm này lại là kẻ có quyền hoặc có tiền và đã biết dùng tiền hoặc quyền để khuynh đảo công lý. Việc đề nghị khởi tố hai nạn nhân với án tử hình nếu thành công thì vừa cứu thoát người được che chở vừa tránh hậu họa, vì một lý do nào đó, thủ phạm đích thực bị bắt hay ra đầu thú, sẽ khiến công an bị kết tội gây án oan sai như vụ "tù oan 10 năm Nguyễn Thanh Chấn".
 
 
            c- Khi hồ sơ điều tra chuyển lên viện kiểm sát, viện này có hai chọn lựa: hoặc miễn tố 2 bị cáo với lý do không đủ chứng cớ, hoặc giúp công an bảo vệ thành tích phá án bằng cách khởi tố họ dựa trên biên bản điều tra. Kiểm sát và công an là hai cơ quan cùng thuộc bộ tư pháp, dưới quyền chỉ đạo của cùng một đảng, nghĩa là có quan hệ "người nhà". Cho nên việc kiểm sát giúp công an bảo vệ thành tích phá án là điều dễ hiểu. Khi hồ sơ được viện kiểm sát chuyển sang tòa án để xét xử, quan hệ "người nhà" giữa tòa án và công an cùng viện kiểm sát lại được vận dụng. Tòa án cũng có hai chọn lựa, hoặc xét thấy không đủ yếu tố buộc tội nên trả nội vụ về công an điều tra lại, hoặc kết án bị cáo theo hồ sơ điều tra. Thực tế, việc chuyển hồ sơ về lại công an chỉ mất thì giờ chứ kết quả điều tra lại thường không thay đổi, nên khuynh hướng của tòa án là căn cứ trên hồ sơ của công an để xét xử và luận tội. Mà một khi chọn giải pháp kết án thì cũng do lo sợ hậu quả là sẽ có thể bị khuyết điểm xử sai, mất thành tích công tác, nên tòa án sẽ đồng lõa với công an và kiểm sát kết án tử hình cho xong chuyện, chưa kể là còn hưởng mối lợi từ thủ phạm thật đang có quyền hoặc có tiền. Rồi để chắc chắn bản án không bị bác bỏ, tòa sơ thẩm đã hội ý trước với tòa phúc thẩm để thống nhất bản án. Việc này mang tính cách "thông đồng", trái với nguyên tắc độc lập của việc xét xử. Nhưng đó là trình tự thông thường diễn ra đằng sau các vụ án quan trọng của hệ thống tư pháp Việt Nam.
 
            d- Do đó chúng tôi mạnh mẽ yêu cầu nhà cầm quyền CSVN phải xét lại toàn bộ hai vụ án (và nhiều vụ án tử hình khác nữa). Không thể chấp nhận việc bắt người vô tội chết thế cho thủ phạm đích thật hoặc đem sinh mạng dân đổi lấy thành tích cho ngành và giữ lấy quyền lực cho đảng. Chúng tôi cũng kêu gọi quốc dân và quốc tế ý thức rõ ràng để hợp lực xóa bỏ tình trạng một nhóm người chiếm độc quyền cai trị cả nước, tự tung tự tác hơn nửa thế kỷ, đang sinh ra những đám mafia thao túng tất cả các lãnh vực, từ kinh tế, văn hóa, chính trị đến tư pháp, bất chấp đạo đức lẫn công lý, lương tâm lẫn tình người. Nếu ai cũng im lặng mà bỏ qua thì rồi có thể một ngày nào đó, bất cứ công dân Việt vô tội nào cũng sẽ là một nạn nhân như Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải. Chúng tôi cũng kêu gọi “Các bà mẹ bà vợ bị oan ức, hãy đoàn kết lại!” (như “Các bà mẹ Thiên An Môn” bên Tàu) để đứng lên tranh đấu, ngõ hầu bảo vệ mạng sống và tự do của con, của chồng mình, cứu bao nhiêu nạn nhân vô tội có thể bị nền tư pháp mafia giết trong tương lai.
 
            Làm tại Việt Nam ngày 10 tháng 12 năm 2014, Ngày Nhân quyền Quốc tế lần thứ 66.
 
 
            Các tổ chức xã hội dân sự đồng ký tên:
 
1- Bach Dang Giang Foundation. Đại diện: Thạc sĩ Phạm Bá Hải
2- Diễn đàn Xã hội Dân sự. Đại diện: Tiến sĩ Nguyễn Quang A
3- Giáo hội Cao Đài. Đại diện: Các CTS Hứa Phi, Nguyễn Bạch Phụng, Nguyễn Kim Lân.
4- Giáo hội Liên hữu Lutheran Việt Nam-Hoa Kỳ. Đại diện: Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa
5- Giáo Hội PGHH Thuần túy. Đại diện: Hội trưởng Lê Quang Liêm
6- Hiệp hội đoàn kết Công - Nông Việt Nam. Đại diện: Ông Nguyễn Mai.
7- Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam. Đại diện: Ông Nguyễn Bắc Truyển.
8- Hội Anh em Dân chủ. Đại diện: Ls Nguyễn Văn Đài
9- Hội Bảo vệ Quyền tự do tôn giáo. Đại diện: Cô Hà Thị Vân.
10- Hội Bầu bí Tương thân. Đại diện: Ông Nguyễn Lê Hùng
11- Hội Cựu Tù nhân Lương tâm Việt Nam. Đại diện: Bác sĩ Nguyễn Đan Quế
12- Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam. Đại diện: Cô Huỳnh Thục Vy
13- Hội thánh Mennonite Chuồng bò. Đại diện: Ms Nguyễn Mạnh Hùng và Ms Lê Quang Du.
14- Khối Tự do Dân chủ 8406. Đại diện: Kỹ sư Đỗ Nam Hải.
15- Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền. Đại diện: Linh mục Phan Văn Lợi.
16- Phong trào Liên đới Dân oan Tranh đấu. Đại diện: Bà Trần Ngọc Anh.
17- Tăng đoàn Giáo hội PGVNTN. Đại diện: Hòa thượng Thích Không Tánh
18- Văn phòng Công lý Hòa bình DCCT Sài Gòn. Đại diện: Linh mục Đinh Hữu Thoại.
            Hải ngoại
19- Đài + báo Việt Nam Tự Do. Đại diện: Giáo sư Vương Kỳ Sơn.
20- Liên mạng truyền thông Báo Động. Đại diện: Ông Huỳnh Tâm
21- Ủy ban Yểm  trợ Khối 8406 New Orleans, HK. Đại diện: Giáo sư Vương Kỳ Sơn.

Tác giả bài viết: Thanh Nguyen

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Thống kê

  • Đang truy cập72
  • Hôm nay13,931
  • Tháng hiện tại235,159
  • Tổng lượt truy cập35,501,440
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây