1/Chuyện tâm linh không thể coi thường.
Thế nhưng cuộc sống vẫn cho chúng ta thấy có những thực tại vượt ra, rất xa, rất cao, siêu việt khỏi cái chuẩn mực của hệ quy chiếu có vẻ như tuyệt đối và toàn trị đó, vượt ra khỏi sự “độc đoán của lý luận đơn thuần”. Vẫn có đó những thực tại siêu hình mà con người không thể chỉ nắm bắt bằng suy lý thuần tuý, nhưng phải cần tới một cung cách nhận thức khác, như những người bình dân thường nói nôm na rằng “chuyện tâm linh không coi thường được đâu!” Đó là những mặc khải siêu nhiên của Thiên Chúa, là những tỏ bày linh thiêng từ Trời Cao, những thực tại rất tốt đẹp nhưng lại có vẻ kỳ lạ, khiến chúng ta nghi ngờ, không biết chúng có thật hay không. Thật vậy, đôi khi chúng ta không thể tin chỉ vì lý do này: điều đó quá tốt đẹp nên không thể là chuyện có thật được.
Trong sách Tin Mừng của Thánh Luca, các môn đệ của Chúa Giêsu Phục Sinh không tin vào Ngài vì một lý do lạ lùng: niềm vui của họ quá lớn lao! “Các ông còn chưa tin vì mừng quá” (Lc 24,41)
Một số người nói rằng họ không thể tin rằng Chúa Giêsu thực sự biết đến và yêu thương từng người trên thế giới, vì điều đó dường như vượt sức tưởng tượng của họ, dựa trên những kinh nghiệm tích lũy có dư từ lâu trong cuộc sống cụ thể mỗi ngày của họ. Có quá nhiều người, nhiều lối sống, nhiều hoàn cảnh, nhiều bất hạnh, không ai có thể quan tâm chăm sóc hết được.
Một số người lại suy nghĩ cách khác. Không nghĩ đến lượng nhưng nghĩ đến chất, họ nói rằng việc gì phải mắc nợ và mang ơn ai quá đáng như vậy, lấy gì mà trả cho nổi, kinh nghiệm dạy bài học tự lo cho mình trước đã, vậy là đủ. Như thế, họ phản ứng cưỡng lại và kết luận rằng không cần đến điều được gọi là sự tha thứ quá rộng lượng của Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu.
Lại có một phản ứng có vẻ như đạo hạnh hơn: một số người thấy mình bất xứng đến độ không thể hiểu được làm thế nào mà ân sủng của Thiên Chúa lại có thể mang đến cho họ phẩm giá không thể bị phá hủy trong tư cách là con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa tuyệt đối thánh thiện cao vời làm sao có thể có điều gì chung với phàm nhân đầy bất toàn, không chút gì tương xứng?
Cảm nhận này nhắc người ta nhớ lại phản ứng của ba môn đệ thân nhất của Chúa Giêsu trong cuộc Biến Hình, khi vinh quang của Ngài làm cho các ông rơi vào trạng thái sợ hãi sững sờ: “Các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17:6).
Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, không muốn là nguồn gốc của nỗi kinh sợ của con người. Trong ý định từ muôn đời, Ngài muốn con người hiệp nhất với Ngài trong kế hoạch yêu thương của Ngài, như thánh sử Gioan chiêm niệm:
“Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa...Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Ngài ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Ngài mà có, nhưng lại không nhận biết Ngài. Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Ngài, thì Ngài cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1: 1-12).
Và sau khi “chỗi dậy từ cõi chết”, không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giêsu Phục Sinh giúp các môn đệ thoát khỏi sự bàng hoàng khi Ngài yêu cầu họ một cách cụ thể: “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng. Ngài cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc 24: 41-43). Sự sống lại của Chúa Kitô chắc chắn là một biểu lộ linh thiêng, nhưng vẫn diễn ra trong tất cả những gì rất cụ thể đời thường của con người trần thế, mà vẫn là một mặc khải siêu nhiên của Thiên Chúa, vốn không thể hiểu trọn vẹn hết được. Sách Tin Mừng Gioan mô tả Tôma được Chúa Giêsu khích lệ rất cụ thể: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20: 27). Gioan không cho biết Tôma có làm theo lời Chúa Giêsu không, ông chỉ mô tả: “Tôma thưa Ngài: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20: 28). Đây là một phản ứng bộc phát tự nhiên và đương nhiên của Tôma nhưng lại cho thấy cả một cõi linh thiêng đang hiện diện trước mặt phàm nhân.
Trước những thực tại siêu nhiên như thế, con người chỉ còn một cách duy nhất là kêu lên như Tôma: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Những mặc khải siêu nhiên của Thiên Chúa là phúc lành dành cho những người có lòng tin tưởng, chứ không dành cho những ai chỉ muốn kiểm định và đánh giá mọi sự theo hệ quy chiếu thuần lý của phàm nhân, vốn không thể định chuẩn cho những thực tại linh thánh: “Chúa Giêsu bảo: Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20: 28).
Tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô là một quyết định cá nhân, một chọn lựa căn bản có sức biến đổi cuộc sống của con người, từ những hạn hẹp của cảm xúc và sự mờ tối của lý trí đến ánh sáng rực rỡ choáng ngợp của cõi linh thiêng, vốn đã được tỏ lộ trước trong Cuộc Hiển Dung. Ông Phêrô thưa với Chúa Giêsu, như trong mơ, rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia. Ông không biết mình đang nói gì” (Lc 9: 33). Người ta chỉ có được ánh sáng này bắt đầu bằng một cuộc gặp gỡ cá vị với Đấng Phục Sinh, trong một hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống, như của hai môn đệ trên đường Emmau: “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài, nhưng Ngài lại biến mất. Họ mới bảo nhau: Dọc đường, khi Ngài nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24: 31-32). Sáng kiến gặp gỡ và ý muốn tỏ lộ này luôn luôn khởi đi từ Thiên Chúa, một cách nhưng không, vô điều kiện, bằng một lòng thương yêu vừa mãnh liệt vừa dịu dàng, đầy an vui: “Chúa Giêsu đứng giữa các ông và bảo: Bình an cho anh em!” (Lc 24: 36). Phần việc của con người là khiêm hạ chấp nhận những giới hạn mọi bề của mình để mở tâm trí và cõi lòng ra đón lấy ánh sáng rạng ngời có sức mạnh đổi đời của Đấng đã chiến thắng ngay cả giới hạn to lớn nhất của trần gian là sự chết.
2/Cùng Đấng Phục sinh, tham gia vào kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa.
Tin và đón nhận niềm vui bình an của Chúa Phục Sinh cũng là tham gia vào kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa.
Sau khi tỏ mình ra với các tông dồ, Chúa Phục sinh nhắc rằng sứ mệnh của họ đã được nói đến trước đó rồi và sẽ được hoàn thành, giống như cái chết và sự phục sinh của Ngài:
“Có lời Kinh Thánh chép rằng: Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24: 46-47).
Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là cốt lõi của Tin mừng. Và sự sám hối để được ơn tha tội cần được các Kitô hữu công bố nhân danh Ngài. Đó là lời mời gọi của Đấng Phục Sinh, rằng tất cả mọi người ở khắp mọi nơi cần tin vào Ngài và sám hối tội lỗi tối tăm của mình. Thông điệp này cần được công bố nhân danh Ngài cho tất cả các dân tộc, các quốc gia, bắt đầu từ Giêrusalem.
Mọi thứ trong trình thuật Tin Mừng này đều mang tính mới lạ. Chúa Giêsu chết trên thập tự giá vì tội lỗi con người, đó là điều mới lạ. Sống lại từ cõi chết, đó là điều mới lạ. Sám hối để được ơn tha tội nhờ ơn đức tin vào Chúa Phục sinh cũng là điều mới lạ
Điều này không chỉ dành cho người Do Thái, không chỉ dành cho dân riêng của Chúa. Điều này dành cho tất cả mọi người, khắp mọi nơi trên thế giới. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành một phần trong sự Phục Sinh của Ngài chứ không phải chỉ đứng ngoài chiêm ngắm và ngưỡng mộ sự Phục Sinh đó. Càng phục vụ Chúa Giêsu và sứ vụ của Ngài, chúng ta sẽ càng tin vào Ngài. Tham gia càng nhiều vào sự sống Phục Sinh của Ngài thì chúng ta càng ít bị nguy cơ đứng ngoài lề như một người ngưỡng mộ đơn thuần.
Và nếu chúng ta cảm thấy bị quá khứ trói buộc, chúng ta hãy giống như hai môn đệ trên đường Emmau để Chúa Giêsu “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh” (Lc 24:45) và giải thích cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã lên kế hoạch xóa bỏ tội lỗi và cứu chữa sự yếu đuối của chúng ta. Cái chết của Ngài dưới tay những kẻ tội lỗi, là chúng ta, lại biến thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19: 10) và Ngài: “là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1: 29).
Một trong những chứng nhân lớn lao đầu tiên của niềm tin cậy này là vị Tông Đồ dân ngoại Phaolô. Ngài đã nói lên niềm tin đầy hy vọng đó trước mặt vua Agrippa:
“Kính thưa đức vua Agrippa…Giờ đây tôi bị đưa ra toà chính là vì hy vọng điều Thiên Chúa đã hứa cho cha ông chúng tôi…Chính vì niềm hy vọng đó mà tôi bị người Do thái tố cáo. Sao trong quý vị lại có người cho rằng việc Thiên Chúa làm cho kẻ chết sống lại là chuyện không thể tin được?” (Cv 26: 6-8).
Vị Tông đồ can đảm lấy chính quá khứ tội lỗi của mình ra để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh:
“Về phần tôi, trước kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi cách đểchống lại danh Giê-su người Nadarét. Đó là điều tôi đã làm tại Giêrusalem. Được các thượng tế uỷ quyền, chính tôi đã bỏ tù nhiều người trong dân thánh; và khi họ bị xử tử, tôi đã bỏ phiếu tán thành. Nhiều lần tôi đã rảo khắp các hội đường, dùng cực hình cưỡng bức họ phải nói lộng ngôn. Tôi đã giận dữ quá mức đến nỗi sang cả các thành nước ngoài mà bắt bớ họ. Thế là sau khi được các thượng tế trao quyền và uỷ nhiệm, tôi lên đường đi Đamát. Kính thưa đức vua, đang khi đi đường, vào lúc trưa, tôi đã thấy một luồng ánh sáng chói lọi hơn mặt trời, từ trời chiếu toả xuống chung quanh tôi và các bạn đồng hành. Tất cả chúng tôi đều ngã nhào xuống đất, và tôi nghe có tiếng nói với tôi bằng tiếng Hípri: Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Đá lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi! Tôi hỏi: Thưa Ngài, Ngài là ai? Chúa đáp: Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ. Nhưng ngươi hãy chỗi dậy, đứng thẳng lên. Ta hiện ra với ngươi là để chọn ngươi làm đầy tớ và làm chứng nhân về những điều ngươi đã thấy, cũng như những điều Ta sẽ hiện ra mà tỏ cho ngươi biết. Ta sẽ cứu ngươi thoát khỏi tay dân Do thái và các dân ngoại: Ta sai ngươi đến với chúng để mở mắt cho chúng, khiến chúng rời bóng tối mà trở về cùng ánh sáng, thoát khỏi quyền lực Xatan mà trở về cùng Thiên Chúa. Như vậy, nhờ tin vào Ta, chúng sẽ được ơn tha tội và được hưởng phần gia tài cùng với các người đã được thánh hiến” (Cv 26: 16-18)
Mỗi người chúng ta là một người theo Chúa Kitô, chúng ta sống để loan truyền Tin Mừng Phục Sinh này đến mọi người. Chúng ta có những hoàn cảnh sống khác nhau, nhưng sứ mệnh đó không chỉ dành cho một số ít người được gọi đến với Giáo Hội. Đây là đích sống của mỗi Kitô hữu chúng ta, là cốt lõi của Tin Mừng. Vì vậy, thông điệp này phải được thông truyền tới tất cả mọi người trên thế giới: “Chúa Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5: 8).
Lạy Chúa Giêsu Phục sinh! Cuộc sống của chúng con luôn có những giờ phút tối tăm u buồn. Xin Chúa có mặt với chúng con trong những thời khắc ấy, và tỏa chiếu một tia hy vọng, giúp chúng con lấy lại niềm tin, sự an bình, để tiếp tục sống những ngày tháng vui mừng trong sự phó thác, hy vọng vào tình thương của Chúa. Amen.
Nguồn tin: Phêrô Phạm Văn Trung.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn