Tết con dê này, ông đã về đây từ ngày cúng ông Táo. Năm nào về ông cũng đem theo qùa, năm thì giò chả, năm thì bánh chưng. Riêng năm nay thì ông có một món qùa đặc biệt, bí mật lắm, từ từ rồi tôi sẽ trình các cụ.
Vừa nghe tin ông về tới Toronto và ở nhà cụ Chánh tiên chỉ thì dân làng kéo đến ngay. Thấy ông là thấy tết liền. Từ xưa ông đã giữ chức trưởng ban nấu cỗ mà. Tay bắt mặt mừng một lúc rồi ông trình cả làng: Tôi mới du lịch xa về. Xin đố cả làng tôi đã đi đâu ? Câu hỏi khó chứ, phải không ạ. Sống ở Bắc Mỹ này chứ có phải sống ở Việt Nam ngày xưa đâu, nên muốn đi bất cứ chỗ nào mà chả được. Đối với ông thì chắc chỉ có một nơi ông không muốn đến mà thôi, đó là nước Việt Nam đang bị cộng sản cai trị. Không ai biết ông đã đi đâu. Thấy làng không đoán nổi thì ông cười hà hà rồi trả lời ngay: Tôi vừa đi một nơi mà chắc cả làng ta chưa ai nghĩ tới chứ đừng nói tới chuyện đã đi tới. Thưa đó là miền Nunavut đặc khu phía bắc cực của nước Canada chúng ta. Nghe đến đây thì ai cũng à lên một tiếng thật to và gật đầu. Đúng vậy, cứ nghe tới Nunavut là nghĩ ngay tới tuyết, tới giá lạnh, ai cũng teo lại hết.
Ông Từ Hòe kể: Ban đầu có người rủ đi thì tôi lắc đầu ngay vì thấy xa quá và lạnh qúa. Nhưng rồi tôi đã đổi ý. Người làm tôi đổi ý các bạn có biết là ai không? Thưa đó chính là vợ chồng chú em kết nghĩa của tôi. Cô chú ấy làm việc ở nhà thờ, nghe mấy bà sơ khoe về chuyến đi Nunavut, được mấy bà sơ cho xem hình ảnh, cô chú ấy mê liền, mua vé đi liền. Đây là một chuyến đi do hãng du lịch tổ chức, mình chỉ cần trả tiền còn các sự khác họ lo hết. Các bạn biết Nunavut ở đâu rồi chứ? Nó ở bên trên tỉnh bang Manitoba, chạy dài tới tận bắc cực. Trước thì Nunanvut thuộc đặc khu Northwest Territories, nhưng rồi thấy rằng miền này lớn qúa nên năm 1999 chính phủ đã cắt ra và lập nên đặc khu thứ ba này. Ôi, cái dặc khu này rộng mênh mang, hơn 2 triệu cây số vuông, lớn bằng cả Âu Châu, mà dân số chỉ có vào khỏang 33.000 người. Đi lại toàn phải dùng máy bay. Đoàn du lịch chúng tôi cũng di chuyển toàn bằng máy bay. Miền này mùa hè thì chỉ có ngày chứ không có đêm, chúng tôi đi vào tháng Tám nên không thấy mặt trời lặn bao giờ.
Chị Ba Biên Hòa giơ tay xin hỏi chuyện bên lề, chuyện chú em của ông. Ông nói ngay: chú ấy bây giờ đạo đức lắm, cả hai vợ chồng đã về hưu, cả tuần làm việc bác ái. Trong tuần thì hai vợ chồng làm thiện nguyện cho một cơ quan xã hội, tìm việc làm cho người thất nghiệp, tìm chỗ ở cho người vô gia cư, lúc rảnh thì đi thăm những người đau ốm trong nhà thương, cuối tuần thì giúp việc nhà thờ, giúp những người lang thang đến xin ngủ đêm ở nhà thờ, cho họ ăn sáng và ăn tối. Chú ấy càng về già càng ghét cộng sản. Ngày xưa còn ở ngoài Bắc, chú ấy là cán bộ cao cấp hạng nặng, được huấn luyện sống chết với đảng, sang bên này, càng ngày chú ấy càng sáng mắt ra khi nhìn lại. Mới tháng trước đây chú ấy tâm sự với tôi về chữ ‘tiêu thổ kháng chiến’ thập niên 1940. Chú bảo ngày xưa Bác Hồ là thần tượng, lời bác nói là chân lý. Bác bảo ta hãy tiêu thổ kháng chiến để chống Pháp, không cho Pháp chỗ ở. Chú là người hăng say nhất trong chiến dịch này. Chú bắt mọi ngươi tản cư, rồi chú đốt nhà của họ, cốt dể giặc Pháp không có chỗ ở. Ai dè, bây giờ nghĩ lại mới thấy mình ngu và mù quáng. Quân Pháp đâu có ở nhà dân. Bọn họ đóng đồn ở ngã ba ngã tư trọng yếu chứ. Thì ra đây là dã tâm của Hồ Chí Minh. Việc phá nhà đốt nhà chính là dã tâm muốn bần cùng hóa nhân dân, làm cho mọi người trắng tay để Đảng dễ sai khiến. Chú ấy luôn miệng nói rằng bọn CS là bọn gian trá và nguy hiểm, chúng không yêu tổ quốc VN mà chúng chỉ yêu cái đảng của chúng…
Cả làng đang say sưa nghe ông Từ Hòe kể chuyện thì Cụ Chánh rung chuông mời làng ăm trưa. Chúng tôi sung sướng thế đấy. Đây là bữa ăn dã chiến, cụ Chánh đếm đầu người rồi gọi hàng bánh cuốn dưới phố. Loáng một cái là có bánh cuốn ngay. Thât là nóng sốt. Mỗi người một hộp lớn. Mở hộp ra thì nào bánh cuốn nóng, nào giò chả, nào đậu phụ chiên, nào giá chín, nào lá thơm, nào dưa leo, nào nước mắm, nào ớt cay. Tôi mê hộp bánh cuốn này qúa. Đây là bữa ăn ngon, lành, bổ. Cụ Chánh không phải lo bát đũa ly chén gì cả. Có sẵn hết trong hộp. Sau bữa ăn thì Chị Ba Biên Hòa, hai Cô Tôn Nữ và Cao Xuân lo cà phê cùng nước trà.
Rồi chúng tôi xin ông Từ Hòe nói tiếp chuyện Nunavut. Ông bảo ông bây giờ có tuổi rồi, trí nhớ sa sút lắm. Chút nữa ông sẽ cho cả làng coi video mà ông đã quay. Rồi ông nhâm nhi tiếp cà phê. Rồi ông thốt lên: Ôi chao, ăn bánh cuốn Thanh Trì VN rồi uống cà phê Starbucks Canada, hai thứ này quyện lấy nhau, sao mà nó hợp với nhau thế, y như là Chị Ba với anh John vậy. Cả làng phá ra cười rũ rượi và gật gù đồng ý.
Thấy cả làng đang lúc sung sướng như vậy, Chị Ba Biên Hòa liền lên tiếng hỏi ông về ý nghĩa danh xưng Nunavut. Ông trả lời: Theo sách vở thì Nunavut là tiếng Da Đỏ, nghĩa là ‘ Đất của chúng ta / Our land’. Nghe thấy vậy, ông ODP liền góp ý ngay:
- Xưa nay các nhà viết sử có câu hỏi về nguồn gốc người Da Đỏ. Họ không phải là người Da Trắng hay Da Đen, họ da vàng rõ ràng. Vậy họ từ miền Á Châu nào tới đây? Các nhà nhân chủng học cho rằng người Da Đỏ đã có mặt ở Canada này ít nhất là 25 ngàn năm. Nét mặt họ không giống nét mặt người Tàu, người Nhật hay người Cao Ly, mắt họ không bé và không xếch. Họ là người Việt cổ, anh em của chúng ta chăng? Có thể lắm, dám lắm. Theo huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ thời tiền sử thì 50 người con đã theo cha xuống biển, còn 50 người con theo mẹ lên núi, tức là lên miền bắc. Khi tới cực bắc phía tây thì gặp eo biển Bering, tức là con đường dẫn vào đất Canada. Con cái mẹ Âu Cơ đã dừng chân ở đây, còn thắc mắc gì nữa.
Năm xưa, có một vị cao niên khả kính cũng đồng quan điểm với tôi. Đó là Cụ Nguyễn Bách Bằng, cựu hội trưởng Hội Cao Niên Ottawa. Mùa xuân năm 1999 Cụ Bằng viết thư cho tôi nói về buổi lễ thành lập tân đặc khu Nunanut ngày 1.4.1999, thư như sau:
“…Đại lễ do Ông Toàn Quyền Leblanc và Thủ tướng Chrétien chủ tọa, với sự tham dự của nội các, các dân biểu và ngoại giao đoàn. Buổi lễ thật long trọng. Quan Toàn quyền ký tên vào lá cờ Nunavut rồi trao cờ cho bà đại diện đặc khu. Bà này cầm lá cờ ấp vào ngực, mắt long lanh giọt lệ. Sau đó là phần văn nghệ của dân địa phương Da Đỏ. Tôi thấy phụ nữ Da Đỏ Nunavut sao giống người Việt Nam chúng ta thế. Họ thật mảnh mai, trái hẳn với thân hình đồ sộ người da trắng. Nhất là khi một thiếu nữ mặc cái áo giống y như áo dài VN, cô hát những lời ca có điệu ‘ý a, ỳ a, ối a’ sao mà nó giống điệu hát quan họ của chúng ta đến thế. Hồi thập niên 1930, tôi có đến dự Hội Lim cách Hà Nội 13 cây số, đã được nghe hát quan họ, cung điệu y như cung điệu cô gái Da Đỏ vừa hát. Tôi đã đem chuyện này kể với nhà văn lão thành Tú Hát, tức cụ Đinh Bá Hoàn lúc đó đang ở Misissauga. Cụ Hoàn cũng gật đầu đồng ý với Cụ Bằng và còn nói danh xưng Nunavut làm cụ nhớ tới bài hát tiếng Việt của trẻ em ngày xưa trong trò chơi xỉa chân. Các em vừa ngồi vừa duỗi chân ra vừa hát: ‘ nu na nu nống, cái cống nằm trong, cái ong nằm ngoài…’ Đây là tiếng Việt cổ, NU = hoặc là, NA = mày, NỐNG = tao, CỐNG=con chó, ONG= con dê, đại ý bài ca nói rằng hoặc mày hoặc tao sẽ phải rụt chân vào nếu bị con chó hay con dê cắn…
Theo Cụ Bằng và Cụ Hoàn thì danh xưng tân lãnh địa Nunavut là tiếng Việt cổ. Căn cứ vào hình dáng, y phục và ngôn ngữ trên đây, chúng ta có thể suy ra rằng người Da Đỏ chính là người Việt cổ. Họ đã đến đây trước chúng ta, nay chúng ta cũng đến đây, tức là anh em đang gặp nhau mà chưa nhận ra nhau đấy thôi.
Sau này tôi còn đem việc này hỏi cụ Đào Trọng Cương trong buổi lễ mừng đại thọ 100 tuổi của cụ mấy năm trước đây, Cụ Cương gật đầu bảo ý của tôi rất đúng. Cụ Cương là cây đại thụ Bắc Kỳ, là kỹ sư xây cất đầu tiên ở Hà Nội thập niên 1940, lời cụ đầy trọng lượng và uy tín.
Ông ODP kể chuyện cũ này xong rồi hỏi cả làng: Còn dân làng ta thì nghĩ sao cơ? Cụ Chánh tiên chỉ đáp ngay: Còn nghĩ gì nữa. Chứng cớ rành rành. Chúng ta đang sống ở đất Canada là đang sống trên đất của anh em chúng ta, tức là gia tộc nhà mình,. không phải sống nhờ nha.
Nghe đến đây ai cũng vỗ tay và cười. Ông H.O. chỉ vào anh John da trắng: Chúng tôi sống ở đất nhà anh em chúng tôi, chỉ có anh là đang sống nhờ đất người khác đó nha! Chị Ba Biên Hòa nghe vậy thì thích qúa, liền hỏi anh John: Anh nghe rõ chưa?
Ngày tết nói cho vui vậy chứ câu hỏi nguồn gốc người Da Đỏ là câu hỏi khó, phải không cơ. Nhưng thôi, đây là chuyện năm cũ con ngựa, nhân ngày cúng ông Táo. Xin Ông Táo đem việc này trình Ngọc Hoàng. Bây giờ tôi kể hầu các cụ chuyện ông Từ Hòe nấu cỗ tết Con Dê.
Dân làng đón chào ông Từ Hòe, được ông kể chuyện và xem phim ông chụp ở Nunavut, được cụ Chánh thết bánh cuốn Thanh Trì, ai cũng vui vẻ sung sướng, nhưng trên đường về nhà, đầu óc ai cũng vẫn còn nghĩ tới ông Từ Hòe. Cái ông này mưu trí lắm. Năm nào ông cũng nấu cổ tết, năm con nào thì cỗ có thịt con đó, năm con gà thì ông nấu món gà, năm con trâu thì ông nấu món trâu, năm con ngựa năm ngoái thì ông nấu món ngựa, năm nay con dê thì chắc ông nấu món dê nhưng không biết ông nấu dê món gì. Ngoài ra ai cũng còn thắc mắc là ông du lịch Nunavut thì không biết ông đã mua món qùa gì cho làng.
Cả làng hồi hộp chờ. Cái ông Từ Hòe này láu lắm. Chúng tôi hỏi Ông ODP và ông H.O. mà hai vị này cũng lắc đầu không đoán ra. Chúng tôi hỏi Cụ Chánh tiên chỉ làng thì Cụ chỉ cười hà hà bí mật, hóa ra cụ vào phe với ông Từ Hoè mất rồi. Đành phải chờ đến ngày tết.
Và ngày trọng đại đã đến. Ông Từ Hòe đứng ra nhận các lễ vật đóng góp của dân làng mang tới và bầy hết lên bàn thờ tổ tiên. Loáng một cái mà bàn thờ đã đầy của lễ. Cụ Chánh đốt nến và đốt hương rồi cùng mọi người chắp tay khấn vái. Cụ lớn tiếng cầu xin tổ tiên phù hộ cho quê hương VN hết nạn CS và phù hộ cho dân làng và con cháu, bên ngoài bây giờ là người Canada nhưng bên trong vẫn mãi là người VN có gốc Rồng Tiên. Rồi chúng tôi lần lượt lên đốt một cây hương và lậy 3 vái. Quả là cảm động.
Rồi cỗ trên bàn thờ được đem xuống, thức ăn trong bếp được mang ra. Món chính là món tái dê và cà ri dê. Năm con dê mà. Và món mọi người chờ mong là món của ông Từ Hòe mua từ Nunavut về. Ông để mọi ngươi hồi hộp chờ đợi một chập rồi ông mới mở lò đem lên một khay thơm ngào ngạt. Các cụ có đoán ra là món gì không ạ ? Thưa là món ‘Hải Cẩu ’. Ông Từ Hòe cười ha ha rồi nói: Ở Nunavut người ta chỉ được săn 40 ngàn con hải cẩu một năm. Họ lấy da, lấy lông xuất cảng. Còn thịt hải cẩu vừa bán trong nước cũng vừa xuất cảng. Tôi có nghiên cứu về con hải cẩu, bữa nay xin cho tôi nói đôi điều về con vật đặc biêt của Canada này. Các nước bên Âu Châu, tuy trong bụng thì thích lông con hải cẩu và da con hải cẩu, nhưng ngoài miệng thì la Canada là tàn ác trong việc giết hải cẩu, rồi lên tiếng tẩy chay. To tiếng nhất là cô đào già Brigitte Bardot. Báo chí Canada lâu nay tỏ ra giận Âu Châu về việc này. Các ngài lên tiếng cấm chúng tôi giết hải cẩu hả? Các ngài có biết một năm lũ ‘chó biển’ này ăn bao nhiêu hải sản của chúng tôi không? Canada đã bỏ ngoài tai việc Âu Châu lên án, Canada vẫn tiếp tục cho phép bắt giết hải cẩu, và tháng Ba vừa qua để tỏ ra thách thức Âu Châu, nhà hàng của quốc hội Canada đã chính thức có món hải cẩu trong thực đơn, hàng tuần sẽ thay đổi món nấu. Các cụ phương xa đã thấy Canada ‘gân’ chưa?
Tôi có đi ăn nhà hàng, có hỏi thăm mấy ông đầu bếp, các ông cho biết thịt hải cẩu cũng gần giống như thịt bò. Khi làm món thịt này thì phải dùng giao thật sắc, bỏ da bỏ mỡ, rồi ngâm nước muối, rồi ướp với chanh và tẩm bột, rồi chiên với bơ hay với dầu. Tôi đã làm như ông đâu bếp Nunavut chỉ, ăn ngon lắm. Tôi không chiên mà nướng và chấm nước mắm gừng tỏi ớt, ăn với cơm hay bánh mì đều hợp cả. Tôi và chú em đã mua một lô thịt đông lạnh đem về. Hôm nay xin làm lễ trình làng.
Cả làng vỗ tay râm ran, món ông vừa bưng ra là món hải cẩu nướng thơm lừng. Trong khi làng vừa ăn vừa xuýt xoa khen ngon, thì ông Từ Hòe lại đứng lên rồi lẳng lặng vào bếp. Lúc ông ra thì ông bưng một đĩa khói ngùn ngụt, và đi thẳng tới bàn phe liền ông. Thấy các đấng quân tử vỗ tay râm ran, bà Cụ B.95 lên tiếng ngay: Bác Từ Hòe phải công bằng nha. Cỗ tết hôm nay phải bằng nhau, mâm phái nữ chúng tôi cũng phải đủ món y như mâm các ông.
Ông Từ Hòe, vừa cười vừa gãi đầu rồi nói: Tôi nấu món này chỉ sợ các bà la nên phải nấu bí mật. Cụ đã nói như vậy, thì tôi xin thành thực khai rằng đây là món ‘hải cẩu pín’, món mà ông cụ Võ Văn Vân ngày xưa đã làm thuốc ‘bổ thận hoàn’ cho phái nam. Phe các bà liền vỗ tay khen sự thành thực khai báo của đầu bếp Từ Hòe, và bà nào cũng đòi nếm thử. Các cụ đã thấy phe liền bà trong làng tôi bạo gan chưa.
Thấy cả làng đều vui mừng tiếp đón món qúy, ông Từ Hòe nói tiếp: Tôi phải vất vả lắm mới tìm mua được món ‘pín’ này. Năm xưa ở Saigon nhà thuốc Võ Văn Vân quảng cáo rầm rộ về sản phẩm ‘Tam Tinh Hải Cẩu bổ thận hoàn’, hồi đó làm gì Võ Văn Vân có món qúy của hải cẩu mà làm thuốc. Còn tôi, lặn lội từ miền tây Canada lên tận miền bắc Canada mới tìm mua được đồ qúy của nó. Tôi phải ướp đá. Hôm nay mới xả đá và làm món chiên với hành tỏi nước mắm. Mời các bạn xơi với rượu để rượu dẫn thẳng vào máu cái sự qúy báu của con vật bắc cực này.
Không phải chỉ các nhà quân tử phái nam trong làng gắp món này, mà phe các bà cũng gắp lia chia nha. Bạo qúa sức vậy đó. Và tiếng cười nói vang lên. Cụ Chánh tuyên bố ơn đại xá: Hôm nay là ngày tết, vui nhất trong một năm, theo truyền thống của làng, mọi người được phép nói các thứ chuyện mặn, không phải kiêng cữ gì cả.
Ông ODP xin kể chuyện ngay. Ông bảo chuyện này không mặn gì cả. Rằng ngày xưa ở Saigon, ông có xem một nhóm chuyên đi bán thuốc dạo với sự lãnh đạo của một anh mãi võ Sơn Đông. Anh này bẻm mép vô cùng. Anh ta luôn luôn có cái trống và cái phèng la phụ họa. Anh ta rao bán thuốc như thế này:
Lùng tùng xoèng
Những người vợ bỏ vợ chê
Tôi cho thuốc uống, vợ mê lại liền
Lùng tùng xoèng…
Rồi anh ta giơ bao thuốc Tam Tinh hải cẩu ra. Thế là giới bình dân ta, nhất là phe liền ông, chạy tới mua ào ào.
Anh H.O. cũng góp chuyện: Ngày xưa tôi cũng có nghe nói về thuốc Tam Tinh Hải Cẩu mà hồi đó không biết con hải cẩu hình dáng như thế nào và nó sống ở đâu. Sang Canada này mới biết hải cẩu sống ở miền băng tuyết phía bắc. Nghe tiếng cái ấy của hải cẩu là thuốc qúy nhưng không biết nó qúy như thế nào, hiệu nghiệm như thế nào. Ở VN quê mình thì tôi chỉ nghe nói con dê và cái ấy của con dê qúy mà thôi. Tôi cũng thấy người Canada chuộng cái ấy lắm, chắc họ cũng có một niềm tin như người mình. Bạn đi chợ mà muốn mua ‘pín’ dê thì phải biết kêu cho đúng tên. Ở Montreal miền nói tiếng Pháp, họ gọi ‘pín’ dê bằng cái tên rất thơ mộng và ngộ nghĩnh là ‘amourette’. Theo tự điển thì amourette là mối tình nhỏ, mối tình dấu kín, còn ở chợ thịt dê thì amourette chỉ của qúy của chú dê.
Nhân nói tới dê, anh John nói rằng anh thích nhất cái chữ bình dân chỉ trái cà tím. Tự điển dịch trái ‘egg plant’ là trái cà tím. Lời này chỉ nói lên được một khía cạnh mầu sắc mà không nói lên được đúng hình dáng. Giới bình dân không gọi là trái cà tím mà gọi là ‘cà giái dê’. Đúng và gây ấn tượng hết sức. Ngoài ra anh John bảo rằng anh đã học được nhiều tiếng bình dân và tiếng lóng của tiếng Việt, anh thấy những tiếng này hay vô cùng. Bữa nay ngày tết Cụ Chánh đã cho nói thả dàn nên anh xin nói hết cái kho cười bình dân mà anh hằng dấu vợ. Anh kể rắng một hôm ăn cơm ở nhà hàng, anh nghe mấy ông VN nhậu bàn bên cạnh nói thế này: Thịt dê bổ dưỡng cả thằng lớn cả thằng nhỏ.
Cái chữ ‘thằng nhỏ’ này hay quá. Trong tiếng Anh khi không muốn nói thẳng tên thằng nhỏ thì người ta gọi thằng nhỏ là John Henri. Trong tiếng VN, ngày xưa ngoài Bắc giới lao động ghét Hồ Chí Minh đến độ họ gọi ‘thằng nhỏ’ là ‘Cụ Hồ’. Một năm hai thước vải thô, Lấy gì che kín Cụ Hồ em ơi!
Nghe đến đây thì Chị Ba giơ tay bịt miệng chồng lại, không cho nói nữa. Ông Từ Hòe thấy anh John bị vợ đàn áp, bèn tiếp sức ngay: Năm nay là năm dê nên xin cho tôi dài dòng về dê, tôi thấy trong tiếng Việt dùng chữ ‘dê’ để chỉ cái tính 35 của liền ông. Tôi học được cái nghĩa này từ câu chuyện giữa 2 cô bạn thân. Hai cô nói chuyện như sau:
- Mi quen tên đó hả?
- Ừ, thì sao?
- Tên đó ‘dê’ lắm.
- Sao mi biết ?
- Cứ nghe nó cười là biết liền1
Cười dê là cười thế nào, thưa các cụ ? Cụ B.95 liền đáp ngay: Anh kể xong câu chuyện dê rồi anh cười be be là cười dê đó.
Cụ già B.95 nói vậy nghe đúng qúa, phải không cơ.
Ông ODP được mời nói tiếp về dê thì có vẻ thích lắm. Ông xin nói chuyện dê theo sách vở. Rằng con dê lớn lên được 6 tháng tuổi là đã biết chuyện yêu đương. Dê được coi là một trong tứ linh được chọn làm vật tế lễ: heo, bò, trâu và dê. Phó mát bên Âu Châu ngon nhất là Camembert làm bằng sữa dê. Sữa dê được coi là béo và bổ nhất trong các loại sữa. Sữa dê đã góp sức cho Đức Phật.
Chuyện kể rằng sau 6 năm tu khổ hạnh, Đức Phật nhận thấy thể xác héo mòn và tâm thần sa sút, nên Ngài quyết định đổi cách tu. Ngài không hãm xác nhịn đói nữa. Có một bà già ngày nào cũng mang sữa dê đến cho ngài. Chỉ một thời gian, Ngài phục hồi sức khỏe rồi theo lối tu khác và Ngài đắc đạo thành Phật.
Trong việc chơi bài, trong 40 con vật thì con dê được vẽ trên lá bài thứ 35, chính vì thế mới sinh ra tiếng ‘máu 35’để chỉ người có máu dê. Mà nghĩ cũng buồn cười, anh con trai có máu 35 thì gọi là dê, còn chị đàn bà mà có máu 35 thì không gọi là dê, mà là ngựa, ‘Con đó ngựa lắm’ chứ không nói ‘con đó dê lắm’.
Nói đến đây tôi liền nhớ đến chuyện Cụ Vương Hồng Sển, một học giả về khảo cổ, tả con dê. Cụ kể rằng thời đó có một ông xã đem biếu quan tây một con dê. Ông tây không biết là con gì liền hỏi, ông xã nói tiếng Tây bồi, ba xí ba tú tả con dê như sau: Lúy mắm xốt xiềng, da na báp, da na cót’ Các cụ nghe có hiểu gì không cơ ? Quan tây nghe xong thì mặt ớ ra, chả hiểu gì. Quan liền cho gọi viên thông ngôn. Ông xã lặp lại câu ông vừa nói, anh thông ngôn bèn phá ra cười rồi trình quan tây: Ông ta nói: Lui même chose chien, il a barbe, il a corne, nó giống con chó, nó có râu, nó có sừng… Cụ Sển chỉ kể đến đây rồi thôi. Cụ không cho biết sau đó ông quan tây có giết dê làm tái dê, lấy pín dê làm món nhậu và lấy máu dê pha với rượu uống thay whisky hay không. Tôi thắc mắc như vậy là vì con dê béo được cha ông ta liệt vào danh sách 3 cái mê ly nhất của đàn ông, ca dao chép rõ ràng:
Thế gian ba sự khôn chừa
Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ
Sách của Cụ Sển chép nhiều câu gay cấn lắm, cụ nói thẳng, không úp mở gì cả. Cụ người Nam mà. Ta hãy nghe cụ tả người đẹp ‘ gái vừa đương tơ’ như sau:
Hai quả núi vàng pha núm tuyết
Một khe hang ngọc nức mùi hương
Và cụ kết luận: Chỉ nhiêu ấy cũng đủ khuynh gia bại sản.
Rồi ông ODP nói tiếp: Cụ Sển tả người đẹp qủa là tuyệt bút, và cụ kết luận qủa là chí lý. Tôi xin kể một chuyện chót về con dê: Xin khoe với cả làng một việc cũng liên quan tới chữ nghĩa. Số là tôi có một bạn già tuổi dê đang sống bên Hoa Kỳ. Ông này gốc nhà báo, nên dịp tết này tôi đã viết một tấm thiệp gửi sang tết ông. Phần chúc tết của tôi mang dạng thách đối, phần một tôi ca tụng nước Mỹ của ông như sau: 6
Và phần hai tôi chúc tết tuổi dê:
Năm Ất Mùi, mùi nào cũng qúy, qúy nào cũng mùi
Tết cụ Dê, dê nào cũng cụ, cụ nào cũng dê
Ông bạn già của tôi nhiều chữ lắm, chắc ông ta sẽ đối lại. Bao giờ được thư ông phúc đáp, tôi sẽ trình làng.
Cả làng xuýt xoa khen ông ODP giỏi văn thơ, ông lắc đầu ngay: mấy câu trên đây tôi gặp trong sách báo, chứ không phải do tôi nghĩ ra đâu. Bây giờ tuồi già, chữ nghĩa bay đi hết rồi
Các cụ xem ông bồ chữ ODP của làng tôi có thành thực và khiêm tốn không.
Lúc này Cô Tôn Nữ mới lên tiếng: Ngày tết các bác nói toàn những chuyện văn chương khô qúa, cụ Chánh đã cho nói chuyện ướt cơ mà. Câu này đã chọc tức anh H.O. Biết các bà thích nghe chuyện ướt, anh H.O. liền xin đọc một đoạn thơ tếu bàn về vợ và bồ nhí:
Vợ là cửa cái
Bạn gái là cửa sổ
Càng nhiều cửa sổ càng sang
Cửa cái anh vẫn đàng hoàng vào ra
Vợ là cửa cái nhà ta
Lại là cửa sổ thằng cha láng giềng !
Nghe đến đây ai cũng phá ra cười. Để làng cười một chập rồi cụ Chánh lên tiếng:
- Lão biết tác giả mấy câu thơ trên đây là Nguyễn Bảo Sinh. Ông này làm thơ có thần, hay như Bùi Giáng vậy. Trong các bài thơ của ông Nguyễn Bảo Sinh, lão thích bài thơ ‘Mê Ngộ’ nhất. Rất thấm vì có chất thiền. Lão xin đọc mấy câu để mừng tuổi mọi người:
Khi mê bùn chỉ là bùn
ngộ ra mới biết trong bùn có sen
Khi mê tiền chỉ là tiền
ngộ ra mới biết trong tiền có tâm
Khi mê dâm chỉ là dâm
ngộ ra mới biết trong dâm có tình
Lão mê các chữ ngộ này quá. Chỉ có ngộ mới giải thoát chúng ta.
Năm mới xin kính chúc các cụ tỉnh mọi cơn mê, ngộ ra hết nha.
Trân trọng,
TRÀ LŨ
LTS: Tác giả Trà Lũ đã viết xong bộ ‘ Chuyện Cười Trà Lũ Toàn Tập’ gồm 4 cuốn 300, 400, 500, 600 chuyện cười, tổng cộng hơn 1800 chuyện. Đây là món quà Christmas và Năm Mới trang nhã nhất. Bạn sẽ cười cả năm. Giá bán tại Canada và Hoa Kỳ là 100 Gia kim hay 100 Mỹ kim (gồm tiền sách và bưu phí). Không bán lẻ từng cuốn. Xin liên lạc trực tiếp với tác giả: petertralu@gmail.com
----------------------------------------------------
Bauxite Việt Nam
Xem phiên bản web
15/02/2015
bauxitevn vào lúc 11:42
VẤN ĐỀ ĐẦU ĐỘC BẰNG PHÓNG XẠ VÀ CÁI CHẾT CỦA ÔNG NGUYỄN BÁ THANH (1953-2015)
TK Tran
Theo những mô tả được phổ biến trên các phương tiện truyền thông, thì bệnh mà ông Nguyễn Bá Thanh mắc phải là bệnh rối loạn sinh tủy - pancytopenia - khi hồng huyết cầu, tiểu huyết cầu và bạch cầu bị suy giảm trầm trọng. Bệnh này là một bệnh hiếm hoi, không phải là bác sĩ nào cũng gặp trong suốt cuộc đời hành nghề. Theo những thống kê thì tỷ lệ mắc bệnh chỉ là 1-2 phần triệu, nghĩa là trong 1 triệu dân cư chỉ có 1-2 người mắc bệnh. Trong những tháng qua, bệnh của ông được dư luận quan tâm đặc biệt, không hẳn là vì chứng bệnh hiểm nghèo hiếm hoi mà ông mắc phải, mà vì nguyên do gây ra bệnh của ông. Đã có giả thuyết là ông bị đầu độc bằng phóng xạ.
Ngày 13.2.2015 ông đã từ trần vì bệnh rối loạn sinh tủy này cùng với suy gan nặng và nhiễm nấm.
Quan điểm của nhà nước về nguyên nhân gây bệnh, vai trò của phóng xạ
Trong cuộc gặp gỡ với báo chí ngày 7 tháng 1 vừa qua, ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương đã thông tin cho báo chí về tình hình sức khỏe của ông Thanh. Ông Quốc Khánh, phó giám đốc viện Huyết học nói rằng, hội chứng rối loạn sinh tủy này trên thế giới chưa ai tìm được nguyên nhân. Nếu tìm được thì đã phòng, chữa được.
Phát biểu của ông Khánh là đúng, song không hoàn toàn chính xác. Theo những thống kê quốc tế, thì có đến 70-80% trường hợp bệnh không tìm ra nguyên nhân. Song trong số 20-30% còn lại, người ta biết rằng chứng rối loạn sinh tủy là phản ứng phụ hiếm hoi của việc sử dụng một số thuốc thông dụng, ví dụ thuốc chống tê thấp như Indomethacin, Phenylbutazone, Diclofenac, thuốc cường giáp như Carbimazol, Thiouracil, tiểu đường như Tolbutamid, thuốc sốt rét Chloroquin, kháng sinh như Sulfonamide, Cotrimoxazol, Chloramphenicol… Bệnh viêm gan của ông Thanh cũng nằm trong danh sách gây bệnh rối loạn sinh tủy. Có nguyên nhân do di truyền (late onset hereditary bone marrow failure syndromes). Được lưu tâm hơn cả là nguyên nhân do nhiễm phóng xạ.
Trong buổi gặp báo chí nói trên, khi phóng viên báo Tuổi Trẻ đặt câu hỏi: Căn cứ nào để Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương khẳng định ông Bá Thanh không bị đầu độc, thì bị ông Nguyễn Thế Kỷ, phó Ban tuyên giáo trung ương vặn ngược lại với cung cách kẻ cả: Vậy căn cứ nào nói bị đầu độc? Ông Phạm Gia Khải, phó trưởng Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương trả lời câu hỏi này nghiêm chỉnh hơn: Chuyện có đầu độc hay không: làm khoa học phải có chứng cứ... chúng tôi chỉ chấp nhận những giả thuyết có bằng chứng cụ thể... Đến nay chưa có triệu chứng nhiễm độc ở bất cứ nơi nào trong cơ thể.
Đầu độc bằng phóng xạ: một phương pháp tối ưu của tội ác
Nếu cho rằng ông Thanh bị đầu độc bằng phóng xạ thì trường hợp của ông không phải là đầu tiên và duy nhất trên thế giới.
Đầu tháng 11 năm 2006 Alexander Liwinenko, một điệp viên nhị trùng làm việc cho phản gián Nga KGB và dồng thời cho phản gián Anh, xin tỵ nạn chính trị ở Anh, bị giết chết ở London bởi chất phóng xạ Polonium 210, chỉ 3 tuần sau khi ông uống 1 ly trà có hòa tan chất phóng xạ này. Người ta cho rằng Putin đã ra lệnh giết Liwinenko vì những cáo buộc của ông ta về những tội ác của chế độ Putin.
Ngày 28 tháng 10 năm 2004 ông Jassir Arafat, thủ lãnh của Palestine đột nhiên lâm bệnh nặng, sau 1 tuần ông không ăn uống được vì viêm đường ruột. Ông được đưa ngay sang Paris, điều trị ở bệnh viện quân đội Percy. Vài ngày sau đó ông bị hôn mê, thận và gan không còn hoạt động, cuối cùng là chảy máu óc. Ngày 11 tháng 11 năm 2004 ông chết, chỉ quãng 2-3 tuần sau khi có những triệu chứng bệnh tật đầu tiên. Các bác sĩ điều trị không kết luận được về nguyên nhân cái chết của ông. Việc mổ tử thi để giảo nghiệm không được gia đình ông cho phép.
Đầu năm 2012 người ta tìm thấy dấu vết của Polonium 210 trong những vật dụng cá nhân của ông còn giữ lại. Từ đó dẫn đến nghi ngờ là ông đã chết vì bị đầu độc bằng phóng xạ . Tháng 10 năm 2013 mộ của ông được cải táng và di cốt của ông được 3 nhóm chuyên gia Pháp, Thụy Sĩ và Nga khảo nghiệm. Kết quả phân chất (8 năm sau khi ông chết) không đồng nhất: Trong khi Thụy Sĩ cho rằng ông Arafat có khả năng (moderately support) nhiễm độc Polonium 210, thì Pháp và Nga không tìm thấy bằng chứng cụ thể. Cuối cùng, tới nay vai trò của Polonium trong cái chết của Arafat vẫn còn là một hoài nghi.
Mặt khác, điều này cũng cho thấy là việc điều tra chứng minh tác động của chất độc phóng xạ không hề đơn giản. Trong trường hợp cái chết của Litwinenko các bác sĩ và những điều tra viên trong những ngày đầu tiên đã phải xếp vào loại chết không rõ nguyên nhân. Chỉ sau một thời gian dài mò mẫm người ta mới xác định được nguyên nhân ngộ độc phóng xạ. Điều này khẳng định thêm một lần nữa tính „ưu việt“ của chất độc Polonium 210 là giết người không để dấu vết hay rất khó khăn để tìm ra dấu vết.
Polonium 210.
Chất độc phóng xạ polonium 210 phát ra tia alpha, không màu sắc, không mùi vị, chỉ cần 1 lượng rất nhỏ (quãng 1-2 µg, nghĩa là 1-2 phần triệu gram) tương ứng với 1 năng lượng quãng 10 Gray là đủ để giết một mạng người. Polonium 210 không cần chuyên chở trong những hộp chì dầy cộm nặng nề lộ liễu dễ gây nghi ngờ như những chất phóng xạ tia gamma bình thường. Cách sử dụng lại rất dễ dàng. Khi sử dụng không gây nguy hiểm gì cho kẻ chủ mưu, bởi vì tia phóng xạ alpha chỉ có hiệu năng trong bán kính 5 cm ở ngoài không khí, có thể được chặn đứng bằng 1 tờ giấy. Hiệu năng phá hoại của nó chỉ được phát huy khi chất độc này lọt vào trong cơ thể qua đường tiêu hóa, hô hấp hay trực tiếp vào mạch máu.
Ở trong cơ thể, tia alpha chỉ có hiệu năng trong bán kính 0,04-0,1 mm, song đủ để phá nát các tế bào trên đường đi của nó. Khi polonium 210 còn nằm trong dạ dày, nó làm các tế bào niêm mạc (mucosa) bị phá hoại, nạn nhân cảm thấy khó chịu, buồn nôn sau chừng 6-7 tiếng đồng hồ. Khi chất phóng xạ theo đường máu tỏa ra khắp các mô trong cơ thể thì phá hủy các tế bào, nhanh nhất là những tế bào có khả năng phân chia nhanh ở trong các tủy xương. Từ đó gây ra chứng rối loạn sinh tủy là một biến chứng nguy hiểm sớm đầu tiên. Tủy xương không thể sinh sản được đầy đủ các tế bào máu. Khi làm khám nghiệm sinh học sẽ thấy chỉ số bạch cầu xuống thấp (leucopenie) rất sớm, trong vòng 4-5 ngày, tiểu cầu xuống thấp (thrombopenie) sau chừng 9 ngày. Một khi đã lọt vào trong cơ thể, thì không còn phương pháp nào để trục xuất chất độc này ra khỏi cơ thể, ngoại trừ một phần theo đường bài tiết tự nhiên (phân, nước tiểu) được đưa ra ngoài. Khi đã có rối loạn sinh tủy, tối thiểu lượng phóng xạ đã phải là 3-5 Gray, thì tiên lượng (prognosis) là LD50 (lethal dosis 50), có nghĩa là 50% nạn nhân sẽ phải chết. Nếu bị đầu độc với lượng cao hơn, quãng 10 Gray sẽ có ngay rối loạn đường tiêu hóa và hệ thần kinh, thì tiên lượng là LD100, nạn nhân không có hy vọng sống sót.
Giả thuyết về việc ông Bá Thanh chết vì bị đầu độc bằng phóng xạ
Trang mạng Chân Dung Quyền Lực (CDQL) đã quả quyết rằng một phó thủ tướng đương nhiệm đã chủ mưu việc đầu độc ông Nguyễn Bá Thanh bằng phóng xạ. Việc đầu độc được cho là vào thời điểm cuối năm 2013, khi ông Thanh đi công tác ở Trung Quốc, rồi được „bạn“ chiêu đãi, đưa đi đây đi đó ăn uống và mua sắm. Ở một thời điểm thích hợp ông đã bị đánh thuốc độc phóng xạ. Từ khi đó sức khỏe ông xuống dốc. Trong khi công tác ở Thụy Điển, ông đã vài lần ngất xỉu.Vào đầu tháng 5-2014 đã được điều trị tại bệnh viện 108 với chuẩn đoán „rối loạn sinh tủy“. Tháng 6 và tháng 7–2014 điều trị tại Singapore và từ tháng 8–1014 tới tháng 1-2015 điều trị tại Mỹ. Ngày 9 tháng 1 năm 2015 ông được đưa trở lại Việt Nam. Ông mất hơn 1 tháng sau đó, vào ngày 13–2–2015 tại Đà Nẵng.
Trang mạng CDQL quyết đoán là các bác sĩ Mỹ đã định bệnh „Ngộ độc phóng xạ ARS“ và đã thực hiện phẫu thuật ghép tủy. Nay ông Thanh đã mất, vấn đề trách nhiệm về cái chết này lại càng trở nên sôi bỏng. Thông tin của CDQL có khả tín hay không là vấn đề được mổ xẻ ở đây.
Chỉ có 2 tình huống có thể đã xảy ra:
– Tình huống thứ nhất: Có âm mưu thực sự muốn giết ông Thanh bằng phóng xạ.
Một chi tiết biện minh cho giả thuyết này là yếu tố Trung Quốc. Polonium 210 chỉ sản xuất được ở một số lò nguyên tử trên thế giới, trong đó có lò ở Trung Quốc. Sản xuất ở Nga chiếm tới 95% tổng số sản lượng thế giới. Việc cho rằng người chủ mưu phải nhờ tới nước ngoài để có được Polonium như vậy cũng hợp lý. Song tất cả diễn biến của bệnh ông Thanh lại không „điển hình“, như tiên liệu của một cuộc đầu độc kinh điển bằng phóng xạ: Vài tiếng đồng hồ sau khi ăn uống phải chất phóng xạ ở Trung Quốc là ông Thanh đã phải khó chịu nôn mửa. Sau 2-3 tuần là lẽ ra tủy xương đã bị tiêu hủy dẫn tới chứng suy/rối loạn sinh tủy. Chậm lắm là 1-2 tháng sau là nạn nhân chết. Ở trường hợp ngộ độc phóng xạ điển hình như trường hợp điệp viên Litwinenko cái chết tới chỉ trong vòng 3 tuần. Ở trường hơp ông Bá Thanh thì không như vậy. Chứng rối loạn sinh tủy phát sinh 5-6 tháng sau khi ông từ Trung Quốc trở về, và tới nay, hơn 1 năm sau ngày bị „đầu độc“ ông mới mất.
Nếu đặt tiền đề rằng chứng „rối loạn sinh tủy“ của ông Thanh phải là do phóng xạ gây ra bởi vì ai đó đã có chứng cớ gì mà hiện nay chưa công bố, thì năng lượng nguyên tử đã dùng chỉ tới mức 3-5 Gray vì „chỉ có“ tủy xương bị tàn phá: Để cố ý giết người thì năng lượng này tương đối thấp. Năng lượng thấp này thường là do tai nạn nguyên tử gây ra. Một khả năng khác là cũng có thể là nguyên nhân cố ý giết người, song lại dùng liều lượng thấp hay dùng chất phóng xạ khác, ít nguy hiểm hơn (như Yttrium 90, cũng phát tán tia alpha, vốn được dùng trong Y khoa hạt nhân để chữa phong thấp, dễ mua và rẻ hơn là Polonium 210). Dù sao chăng nữa, với một năng lượng nguyên tử 3-5 Gray thì tiên lượng bệnh của ông cũng là nghiêm trọng: LD50 (lethal dosis 50). Cái chết hay lẽ sống tương đương ngang ngửa 50% với nhau. Nay cái chết đã thắng thế trên thân xác ông.
– Tình huống thứ hai: Bệnh của ông Thanh không liên quan gì tới phóng xạ.
Trong thời gian qua trang mạng CDQL đã tung ra công luận một số thông tin vô cùng phong phú với những chứng cớ, hình ảnh, giấy tờ khó lòng chối bỏ về tài sản bất chính của một số quan chức cao cấp nhất nước. Những người bị nêu tên đích danh không thốt nổi nửa lời để chống cự lại những cáo buộc trên. Song, trong trường hợp của ông Thanh thì lại khác. CDQL chỉ khẳng định,mà không nêu lên bất cứ bằng chứng, tư liệu nào chứng minh cho cáo buộc là ông Thanh bị đánh thuốc độc phóng xạ. Nếu hình ảnh chụp ông Thanh gầy gò, rụng hết tóc được chụp vài tuần sau khi ông từ Trung Quốc trở về vào cuối năm 2013 thì hình này minh chứng được cho tác động phóng xạ làm ông rụng hết tóc,làm thân xác ông tiều tụy. Song hình ảnh này lại được chụp ở Mỹ, sau 2-3 lần hóa trị, thì đó chỉ là phản ứng rất bình thường của hóa trị. Người dân chờ đợi CDQL tung ra hình ảnh chụp ông Thanh trước khi ông được chữa trị, trưng ra bản copie các kết quả thử nghiệm và kết luận sau cùng của các bác sĩ Mỹ, ví dụ như nồng độ Polonium 210 hay chất phóng xạ khác trong nước tiểu, tủy xương của ông Thanh, ví dụ như báo cáo cytology về những biến dạng hay hư hoại của các tế bào máu trong tủy xương hay kết quả khảo nghiệm chromosome ở các bạch cầu trong máu của ông.
Kết quả thử nghiệm máu vào tháng 5-2014 mà ông Phạm gia Khải cho báo chí biết (hồng cầu giảm, tiểu cầu giảm, bạch cầu không rõ ràng) không đưa ra được kết luận cụ thể. Kết quả này cũng không điển hình với biến đổi do phóng xạ gây ra, bởi vì thông thường thì bạch cầu rất nhạy cảm với phóng xạ, sẽ bị phá hủy nhanh chóng và rõ ràng nhất.
Lời kết
Cho tới ngày ông Thanh mất vẫn chưa có thêm thông tin hay bằng cớ gì mới cho biết là ông Thanh có hay không bị đầu độc bằng phóng xạ. Tất cả cáo buộc từ phía CDQL hay phủ nhận từ phía nhà nước cho tới nay chỉ là những khẳng định chung chung, không bằng chứng.
Ông Nguyễn Bá Thanh đã được khám bệnh, trị bệnh nhiều tháng trời ở những bệnh viện hàng đầu ở 3 quốc gia: Việt Nam, Singapore và Mỹ. Tất nhiên là những dữ kiện về bệnh tình của ông không thể thiếu. Kết luận cụ thể về nguyên nhân bệnh của ông từ những bác sĩ chuyên môn hàng đầu thế giới chắc chắn đã có, song tới nay vẫn được giữ kín như một bí mật quốc gia.
Ngày 7 tháng 1 vừa qua ông Nguyễn Quốc Triệu, trưởng ban bảo vệ săn sóc sức khỏe trung ương, cho rằng việc không cung cấp thông tin bệnh tình của ông Nguyễn Bá Thanh là do: Trong luật khám chữa bệnh, bệnh nhân có quyền bí mật về bệnh, việc cung cấp thông tin bệnh tật của cán bộ cao cấp phải xin ý kiến của cấp trên. Chính sách giấu kín thông tin trong lãnh vực sức khỏe của từng cá nhân là phổ thông và ở khắp nơi. Ở phương Tây cũng thế. Song có một điểm khác biệt quan trọng là ở nơi có chế độ dân chủ, người bệnh nhân có quyền cho phép tiết lộ thông tin sức khỏe của mình cho một người thứ ba mà không cần phải xin ý kiến của cấp trên nào. Ở trường hợp có người tố cáo là có kẻ gian đầu độc người khác, như chuyện Bá Thanh, thì không những là có vấn đề sức khỏe của người bệnh mà còn có vấn đề hình sự đối với kẻ gian, còn vấn đề sử dụng pháp luật để ngăn đe trừng trị. Như vậy không thể có chuyện mượn cớ bí mật sức khỏe để bỏ qua việc điều tra được.
Trong trường hợp không có yếu tố phóng xạ, thì công luận và cá nhân Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phải được thông tin giải oan, và là cơ hội để ông Phó Thủ tướng truy tố kẻ vu khống và đòi bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp có yếu tố phóng xạ, thì đây là là một tội ác không thể khoan nhượng vì đã có người chết. Gia đình ông Thanh phải khởi tố. Nhà nước phải vào cuộc, điều tra kỹ lưỡng để tìm ra chính xác thủ phạm của vụ đầu độc này.
Ngành công an Việt Nam, với số lượng nhân sự và phương tiện khổng lồ, vốn nổi tiếng về những vụ giết người, đánh người trong đồn công an hay đàn áp người dân bất đồng chính kiến, không thể bỏ qua cơ hội để phát huy đúng mức chức năng của mình khi làm sáng tỏ vụ án này.
------------------------------------------
BA SÀM
3399. Ông Nguyễn Bá Thanhvà cái chết tức tưởi
Posted by adminbasam on 15/02/2015
Blog RFA
VietTuSaiGon
14-02-2015
Ngày Mười Ba Thứ Sáu, ông Nguyễn Bá Thanh nhắm mắt từ trần, rời bỏ giấc mộng Thị Trưởng Đà nẵng một thuở, và giấc mộng kinh ban tế thế trên đất Hà Nội cũng tan theo mây khói. Cái chết của ông, sự ra đi của ông để lại sự thương tiếc không ít trong lòng nhiều người dân Đà Nẵng, Quảng Nam và cả nước. Đương nhiên có không ít người oán hận ông. Nhưng hầu như họ ít lên tiếng và có vẻ như họ không nói gì về ông nữa kể từ khi ông lâm bệnh nặng. Cái chết của ông đã hóa giải nhiều mối cừu thù với ông mà trong đó, nguyên nhân có một phần không nhỏ do ông gây ra.
Có thể nói, một cái chết đắt địa nhất trong vấn đề khai sáng cho người Việt vào thời điểm này. Ông đã chết không uổng phí cho dù có bị đầu độc hay bị gì đi nữa. Cái chết đầy ẩn số của ông đã giúp cho người nông dân, kẻ có học, anh phu xe và nhiều thành phần vốn dĩ ngủ quên trong đau khổ, cam chịu, toan tính cơm áo gạo tiền bỗng giật mình đặt câu hỏi: Vì sao ông chết? Có phải là ông bị đầu độc? Nếu còn sống, ông sẽ thăng tiến đến đâu? Chúng ta đang sống trong chế độ nào?
Thứ Sáu ngày 13 – giấc mộng Thị trưởng tan theo mây khói
Lúc còn làm Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, nhiều lần ông Thanh bày tỏ nguyện vọng thay đổi chức danh Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố thành chức Thị Trưởng nhưng cấp trên không chấp nhận. Và lúc ông Thanh đương chức ở Đà Nẵng, hai con đường Trường Sa, Hoàng Sa được ông cho người Trung Quốc thuê để xây dựng các biệt thự, khu nghỉ mát, sòng bạc hàng loạt. Khách Trung Quốc sang thăm, ông cũng dắt họ về khách sạn trên đường Hoàng Sa, Trường Sa để nghỉ lại… Ông cũng từng tuyên bố đã cải trang hàng trăm tàu quân sự thành tàu đánh cá ra biển Đông xua Trung Quốc chạy mất dép. Nhiều trí thức Đà Nẵng cho rằng đó là hành động yêu nước của ông (?!).
Có lẽ bây giờ, câu hỏi ông có bị đầu độc hay không và ai đã đầu độc ông vẫn chưa cũ. Bởi nó là nguyên nhân, đầu mối của mọi vấn đề, bởi nó đã đóng chặt một giấc mơ chính trị, một số phận cũng như khép lại hàng loạt cừu thù đáng tiếc của một đảng viên Cộng sản thuộc hàng cao cấp ở Đà Nẵng và cũng là người có nhiều công trình còn dở dang… Cũng như nó lại giải mã cho câu trăn trối (qua miệng giáo sư Phạm Gia Khải) rằng “gia đình tôi sẽ tự lo mọi chi phí bệnh viện”.
Tại sao một người nằm viện suốt hơn nửa năm trời, một người luôn chịu đựng mọi cơn đau, cố gắng vượt qua cái chết để tiếp tục thực hiện công nghiệp còn dang dở của mình lại chỉ trăn trối một vấn đề hết sức nhỏ, không đáng quan tâm như vậy? Mặc dù khi truyền đạt lại câu nói này, giáo sư Phạm Gia Khải nói với lòng ngưỡng mộ và yêu quí ông Thanh nhưng dường như trong sự ngưỡng mộ, yêu quí ấy có chút gì đó không bình thường!
Nó không bình thường bởi điều mà ông truyền đạt không nhất thiết, không đáng phải công khai trên báo giới, thông tin của nó không có sức nặng cần thiết cho lúc này. Nhưng tại sao ông Phạm Gia Khải lại đưa ra thông tin này?
Có một ẩn số và hai khả năng: Ẩn số về viện phí, nói là nhà nước lo một phần, trung ương đảng lo một phần và gia đình lo một phần viện phí nhưng không nói cái “một phần “ ấy thuộc gói nào, là gói ở bệnh viện đa khoa Đà Nẵng hay là gồm cả gói chữa bệnh ở Mỹ, Singapore. Thông tin về vấn đề này chưa được tường minh. Và hai khả năng là: Lời công bố vô tình của một người có nếp nghĩ không thấu đáo, chỉ trả lời để mà trả lời (khả năng này khó xuất hiện ở giáo sư Khải). Khả năng thứ hai nhằm đấu tố, một bước nối của Chân Dung Quyền Lực.
Vì đến thời điểm hiện tại, chức năng và sứ mệnh đấu tố của Chân Dung Quyền Lực đã hết, nó có tồn tại hay không tồn tại cũng không thể đưa ra ác chủ bài cần thiết mà người ta đặt định. Nhưng cuộc đấu tố quyền lực thì chưa bao giờ chấm dứt. Người ta vẫn chưa buông tha cho ông Nguyễn Bá Thanh. Nên nhớ Chân Dung Quyền Lực là một trang blog phanh phui tham nhũng. Câu nói của giáo sư Phạm Gia Khải là câu nói của một người mến mộ ông Thanh, xét về nội dung, hình thức thì khác nhau, thậm chí khác nhau về bản chất. Nhưng mục tiêu của nó thì phải xem lại!
Bởi lẽ, với mức chi phí mỗi ngày điều trị lên đến hàng chục ngàn đô la, thậm chí có ngày lên đến vài chục ngàn đô la tại bệnh viện Mỹ và bệnh viện Singapore, sau đó về Đà Nẵng, chi phí bệnh viện cũng lên đến hàng chục triệu đồng mỗi ngày. Nếu cộng tổng số tiền điều trị bệnh cho ông Thanh, có thể là vài chục tỉ đồng, thậm chí hàng trăm tỉ đồng gồm chi phí điều trị bệnh, người chăm sóc ăn ở và đi theo qua Singapore, qua Mỹ, rồi chi phí máy bay chuyên dụng để đưa ông về… Chắc chắc con số có thể lên đến hàng trăm tỉ đồng.
Nếu là một cán bộ thanh liêm, thì cả một đời làm việc, ăn lương của ông Nguyễn Bá Thanh không bao giờ chi trả đủ 30% số tiền viện phí. Trong khi đó, nhà cửa của ông Thanh vẫn chưa phải thế chấp hay bán đi để chữa bệnh, xe cộ của ông và con ông vẫn còn nguyên mà lúc sắp ra đi ông lại mạnh miệng tuyên bố gia đình sẽ lo toàn bộ viện phí. Như vậy, bản thân câu nói này đã tự đấu tố Nguyễn Bá Thanh là một quan tham cộm cán! Liệu có thật sự ông Thanh đã nói câu này? Hay là một trò đấu tố khác đang diễn ra?
Và tại sao với một cán bộ cao cấp như Nguyễn Bá Thanh, khi nằm viện lại không có bảo hiểm y tế? Lại phải nhờ đến tổ chức, nhà nước và gia đình? Rõ ràng, câu nói cuối cùng của Nguyễn Bá Thanh rất có vấn đề dù ông có thật sự nói hay là ông Phạm Gia Khải đã nhét vào miệng ông!
Ai đã đầu độc ông Thanh?
Và đến đây, dường như bệnh tật và cái chết của ông Thanh không bình thường nữa. Bởi nó được đưa tin một cách không bình thường; Điều trị một cách bí mật, không bình thường và khi chết, lời trăn trối cũng không bình thường. Một cái chết bất thường trong lòng một chế độ không bình thường. Vậy ai đã đầu độc ông Thanh?
Có hai luồng dư luận, đương nhiên là luồng dư luận do Chân Dung Quyền Lực đưa ra, nói rằng Nguyễn Xuân Phúc đầu độc Nguyễn Bá Thanh đã bị loại bỏ, nó hoàn toàn thiếu căn cứ, thậm chí hồ đồ. Bởi lẽ, Nguyễn Xuân Phúc từ đầu lấy yếu tố vùng miền để đấu đá và thăng tiến. Có thêm một nhân vật miền Trung chống lưng, dù sao cũng vững hơn phải đấu đá lẻ loi với hàng chục đối thủ nói giọng Nam giọng Bắc và luôn chờ thọc hông giữa đất Hà Nội.
Hiện tại, một luồng dư luận cho rằng phe Nguyễn Tấn Dũng đã đầu độc Nguyễn Bá Thanh, luồng khác lại cho rằng chính tay chân bộ hạ của Nguyễn Phú Trọng đã đầu độc Nguyễn Bá Thanh. Vậy đúng sai ra sao?
Ở luồng dư luận thứ nhất, có thể nói rằng nếu Chân Dung Quyền Lực là của phe Nguyễn Tấn Dũng thật sự thì Nguyễn Tấn Dũng khó có thể là kẻ đầu độc Nguyễn Bá Thanh. Vì lẽ, mục tiêu cuối cùng để Chân Dung Quyền Lực đánh là Nguyễn Bá Thanh, đánh một quan chống tham nhũng đang truy kích đàn em của mình, lật tẩy ông ta trước thiên hạ là xem như đắc lợi, chẳng cần nói thêm chuyện gì cho nhiều. Nhưng nếu biết trước Nguyễn Bá Thanh sẽ chết và sẽ không còn cơ hội điều tra đến tài sản gia đình mình, Nguyễn Tấn Dũng chẳng thừa hơi để lập trang Chân Dung Quyền Lực để phanh phui, đấu tố mà kết quả của nó là 50/50. Thành công cũng đó mà nguy hiểm, thân bại danh liệt cũng chính nó nếu như phe đối phương thiết lập một blog khác theo kiểu Gương Mặt Quyền Thế để đấu tố lại chẳng hạn!
Nhưng ở khía cạnh khác, thâm độc hơn, hiểm hóc hơn (mà Nguyễn Tấn Dũng từng làm là mượn tay Nguyễn Phú Trọng để loại Nguyễn Bá Thanh ra khỏi Bộ Chính Trị trong Hội nghị trung ương 7 – 2012), ông Dũng lại một lần nữa mượn tay Nguyễn Phú Trọng để đầu độc Nguyễn Bá Thanh. Vì làm như thế ông được lợi cả hai mặt, vừa không trực tiếp vấy máu lại vừa tung ra cú đòn Chân Dung Quyền Lực để giằng mặt đối thủ và củng cố uy lực. Vậy nếu là phe Nguyễn Phú Trọng đầu độc Nguyễn Bá Thanh thì vì sao lại đầu độc và đầu độc Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Phú Trọng được gì?
Có lẽ phải nhắc lại mối quan Hệ Việt – Trung cũng như thế chân vạt Mỹ – Trung – Việt giữa ba con người gồm Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn tấn Dũng và Nguyễn Bá Thanh. Xét trên góc độ thân Trung Cộng, tương quan của ba nhân vật này ngang nhau. Nếu nhìn bên ngoài, Nguyễn Phú Trọng thân Trung Quốc hơn Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Tấn Dũng có công cho Trung Quốc thuê rừng, đất Tây Nguyên, thuê cảng Vũng Áng lâu dài… so với Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Tấn Dũng là bậc thầy thân Trung, hơn nữa, Trọng và Dũng chức quyền cũng hơn Thanh.
Nhưng trên thực tế thì hoàn toàn khác. Phải nhớ là sau khi Nguyễn Bá Thanh tuyên bố từng cho cả hàng trăm tàu đánh cá do quân đội cải trang ra xua tàu Trung Quốc chạy tán loạn thì sau đó không bao lâu, hàng loạt vụ gây hấn trên biển Đông, rơi vào tọa độ Đà Nẵng đã diễn ra rất nặng nề. Và ở trên đất Đà Nẵng, người Trung Quốc được biệt đãi, họ không xây dựng những khu công nghiệp như Vũng Áng, Hà Tĩnh nhưng họ lại xây biệt thự, xây nhà vip, khu nghỉ mát và sòng bài. Tất cả bờ biển Đà Nẳng hầu như dành cho người Trung Quốc ở và sinh hoạt. Nơi họ ở là một biệt khu, ngoại trừ Nguyễn Bá Thanh, ít có quan chức nào được bước vào bên trong.
Và cái mộng biến Đà Nẵng thành một đặc khu kinh tế không dừng ở đó, ông Thanh cũng không mộng ở cái chức Thị Trưởng. Bởi một khi Đà Nẵng thành đặc khu kinh tế với Thị trưởng Nguyễn Bá Thanh hoặc một Thị Trưởng đàn em của ông, mối quan hệ chính trị dây mơ rễ má với các quan chức cấp cao Trung Quốc mà Nguyễn Bá Thanh đã ngầm thiết lập sẽ giúp ông được rất nhiều. Hơn nữa, với tài năng, cá tính cũng như uy tín được xây dựng từ trước, tiếng nói Nguyễn Bá Thanh tại miền Trung có thể làm ảnh hưởng đến cục diện chính trị cả nước, có thể làm đảo lộn mọi thứ vốn ổn định của Bộ Chính Trị.
Chính vì nhìn ra được điều này mà Nguyễn Phú Trong mặc dù rất tin tưởng vào tài năng Nguyễn Bá Thanh nhưng lại là người loại Nguyễn Bá Thanh ra khỏi Bộ Chính Trị trong Hội nghị trung ương 7. Và trước Hội nghị trung ương 10, Nguyễn Phú Trọng đã sử dụng ác chủ bài, đã cử Nguyễn Bá Thanh sang Trung Quốc công tác. Thực ra là ông thừa biết cử Nguyễn Bá Thanh sang Tàu, cũng đồng nghĩa với chuyện thả cọp về rừng.
Ông ta cũng thừa biết trong con mắt lãnh đạo cấp cao Trung Cộng, chỉ có Nguyễn Bá Thanh mới xứng tầm thái thú cho họ trong bối cảnh hiện tại. Tiếng nói của Nguyễn Phú Trọng, nếu bỏ cái chức Tổng Bí Thư ra, ông ta chỉ là miếng giấy lộn. Trong khi đó, nếu dán cái chức Tổng Bí Thư lên Nguyễn Bá Thanh, có thể làm đảo lộn thời cuộc bởi tiếng nói, sự chi phối của ông đối với nhân dân còn cao hơn rất nhiều so với Nguyễn Tấn Dũng. Trong khi đó, chuyến đi Trung Quốc của Thanh là chuyến đi ủy nhiệm nhằm tìm một sự chỉ đạo, sắp xếp nào đó có lợi cho phe Trọng và có hại cho phe Dũng từ các quan thầy Trung Cộng.
Và chuyến đi có thể nói là rất thành công, Nguyễn Bá Thanh tìm được tiếng nói chung với các quan thầy Trung Cộng. Bởi các lãnh đạo cấp cao Trung Cộng ngay từ đầu cũng nhận thấy miền Trung là yết hầu của Việt Nam về mặt quân sự, nếu thao túng miền Trung thì xem như lấy được Việt Nam, vấn đề là lấy làm sao thật êm mà người ta phải cám ơn sự xâm lược của mình. Nguyễn Bá Thanh nghiễm nhiên trở thành ứng cử viên nặng ký trong chức năng thái thú Trung Cộng tương lai. Và đây là điều Nguyễn Phú Trọng hoài nghi, lo sợ ngay từ đầu. Nó đã thành hiện thực.
Phe Nguyễn Tấn Dũng nhìn thấy sự việc nên đã bài binh bố trận từ Chân Dung Quyền Lực cho đến nhiều việc khác, kể cả phát biểu của Phạm Gia Khải sau này. Và đòn đầu tiên mà Dũng đánh vào Nguyễn Phú Trọng chính là phát biểu có tính chống Trung Cộng của ông. Điều này làm vỡ trận, quan thầy Trung Cộng bẽ bàng nhận ra Nguyễn Phú Trọng không có khả năng quán xuyến Bộ Chính Trị Cộng sản Việt Nam, ông đã không điều khiển được đảng viên đàn em để tạo mối quan hệ thuận lợi cho công cuộc Hậu Thành Đô.
Và Nguyễn Phú Trọng cũng ngỡ ngàng nhận ra mình đã nuôi ong tay áo bấy lâu nay, nuôi một người từng chơi thế chân vạc, vừa đi với Trung Cộng lại vừa mở cửa, mời tàu hải quân Mỹ vào Đà Nẵng và có thể trở thành một lãnh chúa vùng miền, một lãnh đạo quốc gia nếu Trung Quốc chịu chống lưng và cất nhắc. Bây giờ, thay vì phải đánh nhau với Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng lại phải đánh nhau với Nguyễn Bá Thanh. Chuyến đi Trung Quốc của Nguyễn Bá Thanh là một thất bại, mất điểm của Nguyễn Phú Trọng.
Và chuyện gì đến cũng đã đến, Trọng Lú quyết bước ra khỏi vùng lú, phải diệt cho được con ong trong tay áo, diệt ứng cử viên miền Trung – kẻ đã từng nhiều lần biến Đà Nẵng thành đặc khu nhưng chưa được. Bây giờ Trọng mới thấy tham vọng của Thanh, Trọng không còn lú nữa, phải cho Thanh chết! Và khi Thanh chết đi, uy tín của Trọng với đám quan thầy Trung Cộng sẽ lấy lại được. Bởi với họ, nội bộ Cộng sản Việt Nam cứ thoải mái đấu đá, giết nhau, càng giết, càng đấu đá thì càng phải dựa vào đàn anh, họ càng dễ xoa đầu và chỉ định, chỉ đạo.
Nhưng Nguyễn Phú Trọng quên mất một điều, Nguyễn tấn Dũng có một cái chân vạc còn ghê gớm hơn và hình như là mọi sự nóng giận hay thủ đoạn của Trọng đều không qua mặt được Dũng. Cuối cùng, Dũng đã nhổ được cái gai trong mắt mà không tốn viên đạn nào. Trọng càng lúc càng lụn bại.
Đương nhiên đây chỉ là những luồng dư luận được đặt thành giả thiết. Và vấn đề buồn nhất vẫn là cái chết thảm thương và tức tưởi của ông Thanh, đất nước mất một lãnh đạo có tâm. Nhưng cái chết của ông cũng rất đúng lúc, nó làm rõ hơn một thứ chân dung quyền lực khác – những chân dung quyền lực chân vạc, vừa dựa Mỹ nhưng lại trông đợi vào sự cất nhắc của quan thầy Trung Cộng để tiến thân.
Và hình như Nguyễn Bá Thanh đã cay đắng và hốt hoảng nhận ra mình đã nhầm đường cho đến phút lâm trọng bệnh, ông đã chọn đất Mỹ để chữa bệnh. Điều này, nếu bàn luận ra thêm, có khi phải ứa nước mắt cho thân phận chính trị Việt Nam bởi phần lớn nhân dân mãi là đám đông kêu gào, khóc lóc, đại bộ phận quan chức thăng tiến chỉ biết dựa vào sự chống lưng của Trung Cộng.