Biệt tài của hoàng đế Lưu Bang
Lưu Bang nổi tiếng trong sử sách là xuất thân hèn kém, ít học, thời trẻ chỉ thích lông bông, quen ăn chơi đàn đúm, ham mê tửu sắc. Nhưng Tần Thủy Hoàng qua đời tạo cơ hội để ông thâu tóm quyền lực, giống như Hạng Vũ và các chư hầu khác.
Theo các sử gia thời hiện đại, ngoài thời thế tạo anh hùng, Lưu Bang làm nên cơ nghiệp nhờ thuật dùng người vô cùng cao siêu.
Văn thần võ tướng của Lưu Bang phần lớn đều xuất thân từ nhiều tầng lớp trong xã hội. Bất cứ ai có tài, Lưu Bang đều sẵn sàng trọng dụng, trao cơ hội.
Ví dụ như Phàn Khoái là đồ tể. Hạ Hầu Anh và Lâu Kính là phu xe ngựa. Chu Bột mưu sinh bằng nghề dệt chiếu kiêm đánh trống hội và trống đám ma.
Quán Anh chuyên buôn vải. Lệ Thực chỉ là học trò nghèo. Bành Việt, Kình Bố vốn là phường lưu mạnh trộm cướp.
Hình tượng Lưu Bang trong phim truyền hình Trung Quốc.
Đám đại thần của Lưu Bang đa phần đều có xuất thân bất hảo, nhưng điều kỳ lạ là dưới sự chỉ huy của Lưu Bang, họ đều trở thành những nhân vật xuất chúng.
Điểm mạnh của Lưu Bang được cho là nằm ở khả năng dùng người như thần. Lưu Bang hơn người ở chỗ đã dùng người thì không bao giờ nghi ngờ, còn người nào đã nghi ngờ không bao giờ dùng.
“Chiến thần” bách chiến bách thắng Hàn Tín là một điển hình như vậy. Bởi nếu cứ phụng sự dưới trướng Hạng Vũ, có lẽ Hàn Tín không bao giờ có thể lưu danh sử sách muôn đời.
Theo các sử gia, chính vì sự tín nhiệm, sẵn sàng trao cơ hội mà các các tướng lĩnh, đại thần dưới quyền Lưu Bang mới cảm thấy mình được tôn trọng, dốc sức, trung lòng cống hiến.
Sau khi đoạt được thiên hạ, Lưu Bang đã căn cứ vào công lao đóng góp của từng người mà ban thưởng xứng đáng. Không chỉ phong tước, tặng thưởng cho các công thần, những người mà ông từng “ghét cay ghét đắng” như Ung Xỉ cũng được thưởng.
Sai lầm của Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ
Ngược lại với hành trình lên ngôi hoàng đế đầy gian khổ của Lưu Bang, Hạng Vũ là người xuất thân từ gia đình danh gia vọng tộc.
Hạng Vũ là cháu nội đại tướng Hạng Yên nước Sở thời Chiến Quốc, người bị tướng nhà Tần là Vương Tiễn giết. Theo sử ký của Tư Mã Thiên, họ Hạng đời đời làm tướng nước Sở, được phong đất ở Hạng cho nên lấy họ là họ Hạng. Cha Hạng Vũ mất sớm nên ông sống với chú là Hạng Lương
Khi Tần Thủy Hoàng đi chơi đất Cối Kê, vượt qua Chiết Giang, chú cháu Hạng Lương và Hạng Vũ cùng đi xem. Hạng Vũ trông thấy vua Tần, rồi nói: “Có thể cướp và thay thế hắn!”.
Hạng Lương nghe vậy vội bịt miệng cháu: “Đừng nói bậy! Bị giết cả họ bây giờ!” Đó là lúc mà người ta nhận ra Hạng Vũ là người khác thường.
So với Lưu Bang, Hạng Vũ sớm đạt thành công lừng lẫy hơn, thậm chí còn có những trận đánh ép Lưu Bang vào đường cùng. Nhưng đến cuối cùng, một mình Hạng Vũ thống lĩnh 10 vạn quân không địch nổi với 50 vạn quân do Lưu Bang, Hàn Tín và các tướng dưới quyền thống lĩnh.
Từ trước khi Hán – Sở tranh hùng, Hạng Vũ luôn được khuyên xử lý hài hòa mối quan hệ với Lưu Bang, nhưng ông không bao giờ nghe theo.
Theo các sử gia Trung Quốc, nguyên nhân dẫn tới thất bại nhanh chóng của Hạng Vũ là vì ông không biết lắng nghe lời khuyên chân thành, chuyên quyền độc đoán, nên dù trước đây sự nghiệp có hiển hách, vinh quang, lẫy lừng và oanh liệt tới mấy thì cũng đến hồi thất bại.
Hạng Vũ có công lớn trong việc tiêu diệt nhà Tần, nhưng Lưu Bang mới là người thống nhất thiên hạ.
Trải qua ngàn đời sau, người Trung Quốc vẫn nhớ đến cuộc đời thăng trầm của Hạng Vũ. Tước hiệu Tây Sở Bá Vương của Hạng Vũ thậm chí còn trở thành tên gọi riêng cho ông. Nhân vật Tôn Sách ở Đông Ngô thời Tam Quốc là một nhân vật anh dũng dị thường giống như Hạng Vũ, nên được gọi là "Tiểu Bá Vương".
Trong Sử ký, sử gia Tư Mã Thiên không giấu sự thán phục đối với Hạng Vũ, đối thủ lớn nhất đời Lưu Bang – hoàng đế khai quốc nhà Hán.
Tư Mã Thiên còn làm riêng "Hạng Vũ bản kỷ", coi ông sánh ngang với các hoàng đế Trung Quốc đầu tiên như Tần Thuỷ Hoàng, Lưu Bang chứ không phải là các chư hầu như Câu Tiễn hay Trần Thắng.
“Hạng Vũ nổi lên từ thời loạn lạc, chỉ trong 3 năm đã bình định chư hầu, tiêu diệt nước Tần, phân chia thiên hạ, phong các vương hầu, ban ra chính lệnh và tự xưng là bá vương, địa vị tuy không trọn vẹn nhưng từ tận cổ đến nay, chưa hề có người nào được như thế”, Tư Mã Thiên chép.
Sử gia Trung Quốc thời nhà Hán cũng chỉ ra sai lầm của Hạng Vũ. “Tự khoe khoang công trạng, chỉ dùng cái trí của mình mà không chịu bắt chước người xưa, nói rằng có thể lấy võ lực dẹp yên thiên hạ, dựng nghiệp bá vương. Nhưng chỉ được năm năm thì mất nước, thân chết ở Đông Thành, thế mà còn chẳng tỉnh ngộ, không tự trách mình, thật là có lỗi”.
Trong văn học, thành ngữ Hữu dũng vô mưu thường được dùng để mô tả về Hạng Vũ.
Có thể nói, Hạng Vũ là một trong những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Nhắc đến Hạng Vũ, người ta nhớ đến một người đầy tham vọng, một vị tướng hùng dũng tả xung hữu đột trên chiến trường, nhưng lại chuyên quyền độc đoán và hết sức tàn ác. Về mặt này, Hạng Vũ có một chút gì đó giống với Tần Thủy Hoàng – hoàng đế đầu tiên của Trung Hoa.
Ngược lại, Lưu Bang có thể không biết đánh trận, không giỏi binh pháp, không theo quy tắc lễ nghi thông thường của Nho giáo, nhưng ông lại là bậc thầy trong thuật dùng người.
Đó là lý do Lưu Bang trở thành hoàng đế khai quốc nhà Hán, đưa Trung Hoa bước vào giai đoạn phát triển cực thịnh trong lịch sử, chứ không phải Hạng Vũ.
Vì sao Lưu Bang quyết diệt trừ bằng được “chiến thần” Hàn Tín?
Hàn Tín (229 TCN – 196 TCN) nổi tiếng là “chiến thần” bách chiến bách thắng trong thời Hán – Sở tranh hùng sau khi Tần Thủy Hoàng qua đời.
Theo sử sách, Hàn Tín mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Ông sống cuộc đời cực khổ, có những hôm không câu được cá không có gì ăn.
Khi mẹ mất, vì muốn xây cất cho mẹ ngôi mộ ở nơi đẹp đẽ trên núi cao mà bán cả nhà cửa, xách kiếm đi lang thang ngoài chợ.
Thấy Hàn Tín gầy gò yếu đuối nhưng lại vác kiếm trông như võ tướng, có gã bán thịt lợn làm nhục bắt Tín một là dùng kiếm đánh nhau với gã, hai là luồn qua háng. Tín chấp nhận chịu nhục chui qua háng dù bị mọi người chê cười.
Năm 209 trước Công nguyên, khởi nghĩa chống nhà Tần bùng nổ. Cuộc đời Hán Tín bước sang một trang mới khi ông gia nhập nghĩa quân do Hạng Lương và cháu là Hạng Vũ đứng đầu.
Không được Hạng Vũ trọng dụng, ông chuyển sang đầu quân cho Hán vương Lưu Bang, lúc bấy giờ cạnh tranh quyền lực quyết liệt với Sở Bá Vương Hạng Vũ. Nhờ mối quan hệ với tướng quốc nhà Hán là Tiêu Hà, Hàn Tín cuối cùng cũng được trọng dụng và được Lưu Bang phong làm tướng quân.
Hàn Tín lên đàn nhận phong tướng xong bèn phân tích cho Hán vương về những thế mạnh, yếu của Hạng Vũ và cách thức đánh bại Sở, đối thủ lớn nhất lúc bấy giờ của nhà Hán. Lưu Bang kể từ đó bắt đầu xem trọng Hàn Tín.
“Chiến thần” bách chiến bách thắng
Chỉ trong vòng 10 năm kể từ khi được Lưu Bang tin dùng, Hàn Tín đích thân đem quân chinh chiến, gặt hái hết thành công này đến thành công khác.
Năm 206 TCN, ông dẫn quân bình định Tam Tần, do các vua chư hầu Chương Hàm (Ung vương), Tư Mã Hân (Tắc vương) và Đổng Ế (Địch vương) nắm quyền.
Hàn tín là người biết chịu nhục mà ấp ủ chí lớn.
Đội quân do Hàn Tín chỉ huy đánh đâu thắng đó, ông chinh phạt nước Hàn, diệt Ngụy, lấy Triệu, thu phục nước Yên, chiếm nước Tề và tiến đến kẻ thù lớn nhất là Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ.
Năm 202 TCN, Lưu Bang theo kế của Trương Lương, bội ước mang quân đánh úp Hạng Vũ nhưng đại bại.
Lúc này, Lưu Bang mới nhờ cậy đến Hàn Tín và Bành Việt mang quân đến tiếp viện. Nhờ Hán Tín ra tay mà quân Hán mới vây chặt được Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ ở Cai Hạ, Trung Quốc, kết liễu đối thủ lớn nhất đời Lưu Bang.
Giết bạn để chứng minh lòng trung thành
Lưu Bang trở thành người thứ hai thống nhất Trung Hoa sau Tần Thủy Hoàng, tạo nên triều đại kéo dài hơn 400 năm. Hàn Tín với tư cách là công thần khai quốc nhà Hán, được Lưu Bang phong làm Tề Vương rồi sau đó là Sở Vương, nắm quyền bá chủ một vùng.
Mặt khác, đẩy được Hàn Tín rời kinh đô cũng giúp Lưu Bang giảm tầm ảnh hưởng của “chiến thần” trong triều.
Năm thứ hai Hàn Tín lên làm Sở vương, có người đã dâng tấu cáo buộc Tín mưu phản. Bản thân Lưu Bang cũng hiểu rõ đó là lời vu cáo vô căn cứ, nhưng vẫn nhân cơ hội này để hạ bệ Hàn Tín.
Khi có người bẩm báo Hàn Tín mưu phản, các quan trên triều đều vô cùng phẫn nộ.
Lưu Bang chưa tỏ thái độ ngay, kín đáo hỏi ý kiến Trần Bình. Trần Bình có hỏi: “Quân của bệ hạ có tinh nhuệ hơn quân của Hàn Tín không?” Lưu Bang trả lời: “Không sánh kịp”
Trần Bình lại hỏi tiếp: Tướng của bệ hạ có mạnh hơn tướng của Hàn Tín không? Lưu Bang lại trả lời: Sao sánh bằng!
Hình tượng Hàn Tín trong phim truyền hình Trung Quốc.
Tới lúc này, Trần Bình mới nói: Quân không tinh bằng quân hắn, tướng không giỏi hơn tướng hắn, lại muốn đem quân đi đánh, chẳng khác nào cố ép hắn phải làm phản. Lưu Bang nghĩ cũng xuôi nên lên kế hoạch bắt Hàn Tín.
Khi ấy, Lưu Bang lấy danh nghĩa thiên tử đi tuần, xuống gần nước Sở ở phía nam. Hàn Tín không biết ứng phó như thế nào, bởi không biết Lưu Bang muốn bắt mình hay không.
Để tỏ lòng trung thành, ông bèn lấy đầu người bạn cũ Chung Ly Muội nộp cho Lưu Bang. Bởi Lưu Bang thuở xưa rất căm ghét Chung Ly Muội khi người này còn là tướng dưới quyền Hạng Vũ. Nhưng ngay sau đó, Hàn Tín lập tức bị bắt, đem giải về kinh thành.
Hàn Tín vì không phục, nhưng chỉ biết than trời: “thỏ chết thì giết chó, chim hết thì bẻ cung, diệt xong địch thì công thần phải chết.”
Nghi án mưu phản bất thành
Nhưng Lưu Bang cũng không vội vàng giết Hàn Tín ngay, Hán Cao Tổ chỉ nhân cơ hội này khiến Hàn Tín mất đi thanh danh “khai quốc công thần”.
Mặc dù được phóng thích, nhưng Hàn Tín bị giáng chức làm Hoài Âm hầu. Theo tước vị, dưới vương là công và sau đó mới đến hầu. Điều này khiến ông như “cá nằm trên thớt”, vô cùng căm phẫn.
Năm 200 TCN, viên tướng Trần Hy được cử đến trấn thủ Cự Lộc ở tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Trước khi lên đường, Trần Hy có tới chào từ biệt Hàn Tín.
Hàn Tín nói: “Nếu ngươi đi đến đó, ắt sẽ có người cáo ngươi mưu phản, trước sau sẽ bị giáng họa”. Không rõ vì câu nói này của Hàn Tín hay không mà Trần Hy làm phản thật.
Hàn Tín một lòng trung thành với Lưu Bang để rồi nhận cái chết thảm khốc.
Đích thân Hán Cao Tổ dẫn quân đi dẹp loạn, để thái tử Lưu Doanh ở lại trấn thủ kinh thành.
Năm 196 TCN, Lưu Bang ngự giá thân chinh, Hàn Tín cáo bệnh không theo, còn cho người mang thư đến chỗ Trần Hy, hẹn sẽ làm nội ứng tại kinh thành, theo sử sách chép lại.
Sự việc bại lộ, Lã hậu cùng Tiêu Hà nhân cớ này trừ khử Hàn Tín. Lã hậu phao tin biên ải đại thắng, Trần Hy bị diệt, mời quần thần vào cung mở tiệc ăn mừng. Hàn Tín vì chột dạ nên định cáo bệnh, nhưng không qua mắt được Lã hậu. Hàn Tín vừa vào cung đã bị bắt sống và bị xử tử ở cung Trường Lạc.
Các sử gia Trung Quốc ngày nay hầu hết đều cho rằng Hàn Tín không hề có âm mưu làm phản. Nếu muốn làm phản, Tín có nhiều cơ hội kể từ khi còn là Sở Vương, cho đến lúc giết Chung Ly Muội để chứng tỏ lòng trung thành. Đến cuối cùng, Hàn Tín mà có ý làm phản thì chắc hẳn sẽ không dám theo Tiêu Hà vào cung để cho Lã hậu bắt chém.
Trên thực tế, không phải một mình Hàn Tín là nạn nhân của Lưu Bang. Hàng loạt các khai quốc công thân khác, những người được phong vương rồi cũng bị phế truất để thay bằng các hoàng tử nhà họ Lưu.
Ngày nay, Hàn Tín được coi là một trong những anh hùng kiệt xuất, hiếm có trong lịch sử Trung Quốc.
Tác giả bài viết: Van Thanh
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn