75 năm sau khi tuyên bố tín điều, Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời vẫn nâng đỡ Giáo Hội

Thứ ba - 19/08/2025 04:49
tải xuống (10)
tải xuống (10)

Đức Giáo hoàng Pius XII công bố định nghĩa mang tính giáo điều về Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, ngày 1 tháng 11 năm 1950. (ảnh: Miền công cộng)

- WĐBĐM - Với sự tôn vinh thân xác trên thiên đàng, Đức Maria đảm nhận vai trò làm Mẹ không chỉ đối với Chúa Kitô, mà còn đối với tất cả những ai là thành viên của Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô.

Trong một Năm Thánh khác cách đây 75 năm, Đức Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Đức Piô XII — hiện được Giáo Hội tôn kính là “Đấng Đáng Kính” để ghi nhận các nhân đức anh hùng của ngài — đã công bố rằng khi kết thúc cuộc đời trần thế, Đức Maria “đã được đưa cả hồn lẫn xác lên hưởng vinh quang thiên quốc.”

Thật đáng chú ý khi khía cạnh then chốt này trong cuộc đời Đức Maria lại được công bố cách bất khả ngộ vào một thời điểm quan trọng trong lịch sử Giáo Hội. Tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời vốn đã ăn sâu trong niềm tin chung của các mục tử và tín hữu từ thời xa xưa. Đồng thời, khi chính thức định tín, Giáo Hội cũng đã nhận ra ý nghĩa sâu xa của giáo huấn này đối với xã hội hiện đại.

Đức Piô XII, vị Giáo Hoàng đã dẫn dắt Giáo Hội qua Thế chiến II và thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh, nhận thấy đời sống đạo đức của Giáo Hội vẫn bền vững và mạnh mẽ, ngay cả giữa sự phát triển của chủ nghĩa thế tục và các ý thức hệ toàn trị. Trước đó, vào năm 1854, Đức Piô IX đã công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nhờ đó khơi dậy niềm mong đợi nơi nhiều tín hữu rằng Giáo Hội cũng sẽ sớm ban bố một định tín long trọng về sự kết thúc cuộc đời trần thế của Đức Maria.

Ngày 1 tháng 5 năm 1946, chưa đầy một năm sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc tại châu Âu, Đức Piô XII đã gửi thư cho tất cả các giám mục trên thế giới, yêu cầu họ thông báo cho Tòa Thánh về “lòng sùng kính của hàng giáo sĩ và giáo dân… đối với lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” và liệu niềm tin này có thể được công bố như một tín điều hay không. Sau khi nhận được sự hưởng ứng rất tích cực, Đức Giáo Hoàng đã công bố tín điều vào ngày 1 tháng 11 năm 1950 qua Tông hiến Munificentissimus Deus.

Trong tiến trình định tín này, Giáo Hội đã biểu lộ đức tin sống động và phổ quát, nhận ra nhu cầu cấp thiết phải chạy đến với Mẹ Thiên Chúa trước những bất hạnh nặng nề của xã hội. Chính trong bối cảnh ấy, sự thật rằng Đức Maria đã được rước vào vinh quang thiên đàng cả hồn lẫn xác trở thành một lời nhắc nhở mạnh mẽ về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại, được hoàn tất nơi mầu nhiệm Giáo Hội.

Phụng vụ long trọng công bố trong Lời Tựa của lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời rằng việc Đức Trinh Nữ Maria được đưa vào vinh quang là “khởi đầu và hình ảnh của Hội Thánh đang tiến đến sự viên mãn, và là dấu chỉ của niềm hy vọng chắc chắn cũng như niềm an ủi cho Dân Chúa lữ hành.” Lời Tựa này còn giải thích nền tảng của đặc ân: “Thật hợp lẽ khi Chúa không để Đấng đã cưu mang Con Một Người chịu cảnh hư nát trong mồ, vì Mẹ đã sinh ra Người một cách lạ lùng từ chính lòng mình, Người là Đấng tạo thành mọi sự.”

Như Đức Piô XII đã nhấn mạnh trong Munificentissimus Deus, tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời dựa trên sự kết hợp mật thiết giữa Đức Maria và Chúa Giêsu, được thực hiện nơi mầu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể. Ngài khẳng định, thật “khó mà tưởng tượng” rằng Đức Maria, “người đã cưu mang Đức Kitô, sinh hạ Người, cho Người bú mớm, ẵm bồng và ôm ấp Người trong lòng, lại có thể bị tách lìa Người về thể xác sau cuộc đời trần thế này.”

Nhờ sự tôn vinh thân xác trên trời, Đức Maria trở thành Mẹ không chỉ của Chúa Kitô mà còn của tất cả những ai thuộc về Nhiệm Thể Người là Giáo Hội. Nhà thần học Pháp René Laurentin nhận định: trong lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Đức Maria ý thức đảm nhận cách trọn vẹn vai trò làm Mẹ thiêng liêng mà Mẹ đã lãnh nhận từ biến cố Truyền Tin, được chính thức hóa dưới chân thập giá và trở nên hiệu lực trong ngày Lễ Hiện Xuống.

Ngay từ thời Kitô giáo sơ khai, các tín hữu đã sẵn sàng nhìn nhận thiên chức làm Mẹ này. Lời cầu nguyện xưa nhất dâng lên Đức Maria mà chúng ta biết đến — một bản văn tiếng Hy Lạp từ thế kỷ thứ ba — đã khẩn nài Mẹ Chúa Kitô dưới tước hiệu Theotokos (“Mẹ Thiên Chúa”). Đến thế kỷ thứ tư, tước hiệu này đã được chấp nhận rộng rãi và gắn liền với tín điều Nixêa về thần tính của Đức Kitô. Công đồng Êphêsô (431) sau đó long trọng xác quyết danh hiệu này để chống lại những ngộ nhận của Thượng phụ Nestôriô.

Từ nhận thức ngày càng sâu xa về căn tính độc nhất của Đức Maria, Giáo Hội bắt đầu suy tư về biến cố kết thúc cuộc đời Mẹ. Dù Tân Ước không đề cập trực tiếp, lòng đạo đức bình dân đã tìm thấy câu trả lời trong các văn bản sùng kính được gọi là Transitus Mariae (“Sự chuyển tiếp của Đức Maria”). Dù không mang giá trị lịch sử, những bản văn này cho thấy niềm tin vào việc Đức Maria Hồn Xác Lên Trời đã xuất hiện ít nhất từ thế kỷ thứ năm.

Cũng trong thế kỷ này, ngôi thánh đường kính Đức Maria cổ nhất tại Giêrusalem được xây dựng trên nền nghĩa trang thế kỷ thứ nhất, nơi lưu truyền là mộ Đức Trinh Nữ. Ngôi mộ trống ấy ngày nay trở thành một phần của Đền thờ Mộ Thánh Đức Maria.

Đến thế kỷ thứ VI, lễ kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời — với danh xưng tương tự trong Giáo Hội Tây Phương — đã phổ biến trong các Giáo Hội Đông Phương. Từ đó, niềm tin về cùng đích của Đức Maria trở thành một điểm hiệp thông quan trọng giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo. Như cha Aidan Nichols, O.P., nhận xét: việc tôn kính Đức Maria chính là phương thế gìn giữ đức tin chân chính vào Đức Kitô và mầu nhiệm Ba Ngôi khỏi những sai lầm.

Trong truyền thống cầu nguyện, Giáo Hội tiếp tục tôn kính Đức Maria trong kinh Kính mừng Nữ Vương (Salve Regina), được phổ biến từ thế kỷ XI, gọi Mẹ là “sự sống, sự ngọt ngào và niềm hy vọng của chúng ta.” Dù một số Kitô hữu — kể cả Martin Luther — từng băn khoăn với cách diễn đạt này, cần nhấn mạnh rằng mọi tôn kính đối với Đức Maria đều quy hướng về Chúa Kitô. Lời kinh cổ kính ấy hướng chúng ta đến Mẹ như một “Đấng bầu cử nhân từ nhất” trước tòa Thiên Chúa, để rồi chính nhờ sự chuyển cầu của Mẹ, ta đạt tới cùng đích: “Sau cuộc lưu đày này, xin cho chúng con được thấy Đức Giêsu, Con lòng Mẹ, chí ái.”

Nhờ những đặc ân Chúa Kitô ban cho Mẹ và nhờ quyền năng của sự chuyển cầu từ mẫu, Đức Maria trở thành niềm hy vọng vững chắc cho chúng ta. Khi chiêm ngắm Mẹ, Dân Chúa thêm xác tín rằng tội lỗi và sự chết sẽ không bao giờ có tiếng nói sau cùng.

Niềm tin vào vinh quang của Đức Maria cũng giúp ta ý thức sâu xa hơn về sự thánh thiện trọn hảo mà Thiên Chúa muốn tỏ bày nơi Mẹ và trong Giáo Hội. Trong một thế giới nhuốm màu chủ nghĩa duy vật và sự suy thoái luân lý, như Đức Piô XII đã dạy trong Tông hiến của mình, lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời nhắc nhớ chúng ta về “cùng đích cao cả” mà toàn thể nhân loại được kêu gọi đạt tới, cả hồn lẫn xác.

Do đó, tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một chân lý cổ xưa nhưng vẫn mang ý nghĩa khẩn thiết cho thời đại hôm nay. Củng cố bởi niềm tin này, các tín hữu có thể can đảm “hãy vui mừng trong niềm hy vọng” (Rm 12,12), không làm ngơ trước những khó khăn mà Giáo Hội và thế giới đang đối diện. Bởi vì, “nơi Đức Trinh Nữ Maria,” như Đức Giáo Hoàng Phanxicô khẳng định khi triệu tập Năm Thánh hiện tại, “chúng ta thấy rằng hy vọng không phải là sự lạc quan ngây thơ, nhưng là một ân sủng, một món quà được ban giữa những thực tại của cuộc sống.”


con sóng nhỏ chuyển ngữ

Nguồn tin: Lm. Joseph Thomas, Opus Dei – Ewtnvatican

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Thống kê

  • Đang truy cập72
  • Thành viên online1
  • Khách viếng thăm71
  • Hôm nay20,733
  • Tháng hiện tại270,597
  • Tổng lượt truy cập39,777,351
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây