Từ lâu, các nhà tâm lý học đã nghiên cứu về cách ta nhìn nhận cuộc sống và các yếu tố thúc đẩy hành vi của ta, và họ đã đạt được những bước tiến to lớn trong việc vén bức màn bí ẩn đó. Ngoài việc cung cấp đề tài để khơi mào các cuộc trò chuyện trong những bữa tiệc rượu nhỏ, một số thí nghiệm tâm lý học nổi tiếng nhất trong thế kỷ qua đã hé lộ những sự thật phổ biến và thường gây kinh ngạc về con người. Sau đây là 10 nghiên cứu tâm lý kinh điển có thể thay đổi cách bạn hiểu về bản thân.
1. Trong mỗi người đều tồn tại mặt ácCó thể nói thí nghiệm nổi tiếng nhất trong lịch sử ngành tâm lý học là nghiên cứu nhà tù Stanford năm 1971, nghiên cứu này tiến hành khám phá các hoàn cảnh xã hội có thể ảnh hưởng đến hành vi con người như thế nào. Các nhà nghiên cứu, do nhà tâm lý học Philip Zimbardo dẫn đầu, lập ra một nhà tù giả trong tầng hầm của tòa nhà khoa tâm lý học Stanford và chọn ra 24 sinh viên (những sinh viên này không có hồ sơ phạm tội và được cho là có trạng thái tâm lý lành mạnh) vào vai tù nhân và quản chế. Sau đó, các nhà nghiên cứu quan sát các tù nhân (họ phải ở trong xà lim 24 tiếng/ngày) và các quản chế (những người này thay ca cho nhau sau 8 tiếng) bằng camera ẩn. Thí nghiệm này, được lên lịch kéo dài trong 2 tuần, đã phải dừng lại chỉ sau 6 ngày vì hành vi ngược đãi của các quản chế – trong một số trường hợp, họ thậm chí còn tra tấn tâm lý các tù nhân – và khiến những người này căng thẳng lo lắng tột độ. “Các quản chế ngày càng hung hãn với tù nhân, họ lột sạch quần áo của tù nhân, trùm bao lên đầu họ, rồi cuối cùng bắt họ thực hiện các hoạt động tình dục ngày càng tồi tệ,” Zimbardo kể với tạp chí American Scientist. “Sau 6 ngày tôi phải kết thúc thí nghiệm này vì nó đã vượt khỏi kiểm soát – thật sự mỗi tối tôi không thể ngủ mà không lo lắng về những gì các quản chế có thể làm với tù nhân.”
2. Ta không nhìn thấy những gì Ở ngay trước mắt mìnhHãy nghĩ về những gì bạn biết đang diễn ra quanh mình? Bạn có thể không thật sự chú ý như bạn nghĩ. Năm 1988, các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Harvard and Kent State đã chọn khảo sát những người đi bộ trong một khuôn viên đại học nhằm xác định xem bao nhiêu người chú ý đến môi trường xung quanh mình. Trong thí nghiệm này, một diễn viên tiến đến gần một người đi bộ và nhờ chỉ đường. Trong lúc người đi bộ đang chỉ đường, có 2 người đàn ông khiêng một cánh cửa lớn bằng gỗ đi giữa diễn viên và người đi bộ, hoàn toàn chắn tầm nhìn của 2 người với nhau trong vài giây. Trong thời gian đó, diễn viên này đã được thay thế bằng một diễn viên khác, có chiều cao và vóc dáng khác, và trong một bộ trang phục, kiểu tóc và giọng nói khác. Một nửa số người đi bộ không nhận ra sự thay thế này. Đây là một trong những thí nghiệm đầu tiên minh họa cho hiện tượng “mù thay đổi”, nó cho thấy ta chọn lọc những gì mình tiếp nhận từ bất kỳ khung cảnh nào – và dường như ta dựa vào trí nhớ và sự nhận biết theo mô thức nhiều hơn mình suy nghĩ.
3. Trì hoãn cảm giác thỏa mãn thì rất khó – nhưng ta sẽ thành công hơn nếu làm được điều đóMột thí nghiệm nổi tiếng của Stanford vào cuối những năm 1960 kiểm tra khả năng kiềm chế trước cám dỗ trước mắt của những trẻ mầm non – và nó đã cung cấp một số hiểu biết quý giá về ý chí và kỷ luật tự giác. Trong thí nghiệm, những đứa trẻ 4 tuổi được đưa vào một căn phòng một mình với một viên kẹo dẻo được đặt trên chiếc đĩa trước mặt trẻ, và được bảo rằng trẻ có thể ăn viên kẹo đó ngay, hoặc nếu đợi đến khi nhà nghiên cứu quay lại sau 15 phút, trẻ có thể có 2 viên kẹo. Mặc dù hầu hết những đứa trẻ này đều nói sẽ đợi, nhưng thường khó nhịn được và sau đó bỏ cuộc, ăn viên kẹo trước khi nhà nghiên cứu quay lại, tạp chí TIME thuật lại. Nhìn chung, những trẻ kiềm chế được hết 15 phút đã áp dụng chiến thuật né tránh, chẳng hạn như quay lưng đi hoặc nhắm mắt lại. Tác động từ hành vi của những đứa trẻ này rất quan trọng: Những trẻ có thể trì hoãn cảm giác thỏa mãn ít có nguy cơ bị béo phì, nghiện ma túy hoặc có các vấn đề về hành vi khi đến tuổi teen, và sau này thì thành công hơn trong cuộc sống.
4. Ta có thể trải qua sự xung đột sâu sắc về mặt đạo đứcMột nghiên cứu nổi tiếng năm 1961 do nhà tâm lý học Stanley Milgram tiến hành kiểm tra (hơi cực đoan) xem mọi người sẽ tuân theo người có quyền đến đâu khi được yêu cầu làm hại người khác, và xung đột nội tại dữ dội giữa đạo đức cá nhân và nghĩa vụ phục tùng mệnh lệnh người có quyền. Milgram muốn tiến hành thí nghiệm này để tìm hiểu tại sao các tội phạm chiến tranh Nazi có thể có những hành động ghê rợn không tả xiết trong cuộc tàn sát Holocaust. Để làm điều đó, ông thử nghiệm 2 người tham gia, một người được cho là “giáo viên” và người kia được cho là “học trò.” Người giáo viên được hướng dẫn cho sốc điện người học trò (đang ngồi trong một căn phòng khác, nhưng trên thực tế không bị sốc điện) mỗi khi trả lời sai câu hỏi. Milgram cho phát những đoạn ghi âm nghe như người học trò đang đau đớn, và nếu đối tượng “giáo viên” tỏ ý muốn dừng lại, người giám sát sẽ đốc thúc họ tiếp tục. Trong thí nghiệm đầu tiên, 65% người tham gia đã thực hiện cú sốc điện cuối cùng gây đau đớn, 450 volt (ký hiệu là “XXX”), mặc dù nhiều người tỏ ra căng thẳng và không thoải mái khi làm điều đó. Mặc dù nghiên cứu này được xem là lời cảnh báo chung về việc mù quáng phục tùng uy quyền, gần đây tạp chí Scientific American đã xem xét lại nghiên cứu này, cho rằng những kết quả đó cho thấy thêm sự xung đột đạo đức sâu sắc. “Bản chất đạo đức con người bao gồm khuynh hướng cảm thông, tử tế và tốt bụng với những người thân thích và cùng nhóm, cùng khuynh hướng bảo thủ, độc ác và xấu xa với những người khác nhóm”, nhà báo Michael Shermer viết. “Các thí nghiệm sốc điện không chỉ cho thấy sự phục tùng mù quáng mà còn cả các khuynh hướng xung đột đạo đức ẩn sâu bên trong.” Gần đây, một số nhà bình luận đặt nghi vấn về phương pháp của Milgram, và một nhà phê bình đã lưu ý rằng các ghi chép về thí nghiệm đó được thực hiện tại Yale cho thấy 60% người tham gia thật ra không tuân theo mệnh lệnh thực hiện cú sốc điện có cường độ mạnh nhất.
5. Ta dễ dàng khuất phục trước uy quyềnCó một lý do tâm lý đằng sau việc người có quyền đôi khi hành xử với người khác theo hướng lạm quyền và thiếu tôn trọng. Một nghiên cứu năm 2003 được đăng trên tờ Psychological Review xếp các sinh viên theo các nhóm 3 người để cùng viết một bài luận ngắn. Hai sinh viên được hướng dẫn viết bài luận, trong khi người còn lại được bảo đánh giá bài luận và quyết định mỗi sinh viên được trả bao nhiêu tiền. Khi họ đang làm việc giữa chừng, một nhà nghiên cứu mang vào đĩa bánh quy gồm 5 cái. Mặc dù nhìn chung không ai ăn chiếc bánh cuối cùng, đa số “trưởng nhóm” luôn ăn chiếc bánh thứ tư– một cách trịch thượng. “Trong các cuộc thí nghiệm khoa học, khi các nhà nghiên cứu trao cho ai đó quyền lực, họ sẽ dễ chạm vào người khác theo cách không đúng đắn, thẳng thừng tán tỉnh hơn, có những lựa chọn và đánh cược liều lĩnh, đưa ra những đề nghị đầu tiên trong các cuộc đàm phán, nói ra suy nghĩ của mình, và ngốn bánh quy, nhà tâm lý học Dacher Keltner, một trong những người chỉ đạo nghiên cứu, viết trong một bài viết cho Trung tâm Khoa học Greater Good của Đại học California, Berkeley.
6. Ta tìm sự trung thành từ những nhóm xã hội và dễ dàng bị cuốn vào xung đột trong nhómThí nghiệm tâm lý xã hội kinh điển năm 1950 tập trung vào yếu tố tâm lý căn bản có thể xảy ra về lý do vì sao các nhóm xã hội và các quốc gia thấy mình bị cuốn vào các cuộc xung đột với nhau – và làm sao họ có thể học cách tái hợp tác. Trưởng nhóm nghiên cứu Muzafer Sherif đưa 2 nhóm nam,mỗi nhóm 11 em (tất cả đều 11 tuổi) đến Công viên Quốc gia Robbers Cave tại Oklahoma để tham gia “trại hè.” Hai nhóm (có tên là “Đại Bàng” và “Rắn Chuông”) trải qua một tuần ở riêng với nhau, cùng nhau vui chơi và gắn kết, không biết đến sự tồn tại của nhóm kia. Khi cả 2 cuối cùng được nhập lại, các em bắt đầu xúc phạm nhau, và khi bắt đầu tranh đua trong nhiều trò chơi, nhiều xung đột hơn xảy ra và cuối cùng hai nhóm không muốn dùng bữa cùng nhau. Trong giai đoạn tiếp theo của nghiên cứu, Sherif thiết kế các thí nghiệm nhằm cố gắng hòa giải những đứa trẻ này bằng cách để các em cùng tận hưởng các hoạt động giải trí (nỗ lực thất bại) rồi để các em cùng giải quyết một vấn đề, và cách này cuối cùng bắt đầu hóa giải được xung đột.
7. Ta chỉ cần một thứ để hạnh phúcNghiên cứu Harvard Grant kéo dài 75 năm – một trong những nghiên cứu so sánh qua thời gian toàn diện nhất từng được tiến hành – theo dõi 268 nam sinh viên ở Harvard từ các lớp 1938-1940 (hiện nay đã ở độ tuổi 90), thường xuyên thu thập dữ liệu về các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của họ. Kết luận tổng thể là gì? Tình yêu thật sự là điều quan trọng nhất, ít nhất trong việc quyết định hạnh phúc lâu dài và cảm giác thỏa mãn trong cuộc sống. Người chỉ đạo nghiên cứu này trong nhiều năm, bác sĩ tâm thần George Vaillant, nói với tờ Huffington Postthat rằng có 2 cột hạnh phúc: “Một là tình yêu. Hai là tìm cách đương đầu với cuộc sống mà không bỏ qua tình yêu.” Ví dụ, một người bắt đầu tham gia nghiên cứu với tình trạng tương lai ít ổn định nhất trong tất cả các đối tượng nghiên cứu và anh từng cố tự tử. Nhưng đến cuối đời, anh lại là một trong những người hạnh phúc nhất. Tại sao? Vaillant giải thích, “Anh dành cuộc đời mình để tìm kiếm tình yêu.”
8. Ta thành công khi có lòng tự trọng và địa vị xã hội vững vàngViệc có được danh tiếng và thành công không chỉ giúp nâng cao cái tôi – nó có thể còn là bí quyết để sống trường thọ, theo nghiên cứu về những người đạt giải Oscar nổi tiếng. Các nhà nghiên cứu đến từ Trung tâm Khoa học Sức khỏe Sunnybrook và Women’s College tại Toronto phát hiện các diễn viên và đạo diễn thắng giải Oscar có khuynh hướng sống lâu hơn những người được đề cử những không thắng giải, các nam nữ diễn viên đạt Oscar sống lâu hơn những đồng nghiệp trạc tuổi nhưng không giành được giải thưởng này trong gần 4 năm. “Chúng tôi không nói rằng bạn sẽ sống lâu hơn nếu thắng giải Oscar,” Donald Redelmeier, nhà nghiên cứu chính, nói với ABC News.“Hoặc mọi người nên ra ngoài và tham gia các khóa học diễn xuất. Kết luận chính của chúng tôi đơn giản là các yếu tố xã hội rất quan trọng ... Nó cho thấy cảm giác tự trọng bên trong là một khía cạnh rất quan trọng đối với sức khỏe và sự chăm sóc sức khỏe.
9. Ta không ngừng cố gắng lý giải những trải nghiệm của mình cho nó hợp lý với taBất kỳ ai tham gia lớp Tâm lý học Căn bản dành cho sinh viên năm nhất đều quen thuộc với khái niệm bất hòa về nhận thức, lý thuyết cho rằng con người có xu hướng tránh xung đột tâm lý dựa trên những niềm tin trái ngược và loại trừ lẫn nhau. Trong một thí nghiệm nổi tiếng năm 1959, nhà tâm lý học Leon Festinger yêu cầu những người tham gia thực hiện một loạt những công việc ngớ ngẩn, chẳng hạn như xoay cái chốt trong tay nắm cửa bằng gỗ, suốt một tiếng đồng hồ. Sau đó, họ được trả 1 hoặc 20 đô-la để nói với người tham gia đang đợi (thật ra là nhà nghiên cứu) rằng công việc này rất thú vị. Những người được trả 1 đô để nói dối đánh giá các công việc này thú vị hơn những người được trả 20 đô. Kết luận ở đây là gì? Những người được trả nhiều tiền hơn cảm thấy họ có đủ lý lẽ để biện minh cho việc thực hiện công việc một cách máymóc trong một tiếng đồng hồ, nhưng những người chỉ được trả 1 đô-la cảm thấy cần biện minh cho thời gian đã bỏ ra (và giảm bớt mức bất nhất giữa những niềm tin và hành vi của họ) bằng cách nói hoạt động này rất vui. Nói cách khác, ta thường tự dối lòng để khiến thế giới này có vẻ hợp lý và hài hòa hơn.
10. Ta tin vào các khuôn mẫuDù không cố làm, nhưng chúng ta đều dán nhãn các nhóm người khác nhau dựa trên nhóm xã hội, sắc tộc hoặc tầng lớp – và nó có thể khiến ta đưa ra các kết luận không công bằng và có hại cho tất cả mọi người. Các thí nghiệm của nhà tâm lý học John Bargh thuộc Đại học New York về “tính tự động của hành vi xã hội” cho thấy ta thường đánh giá mọi người dựa trên các khuôn mẫu vô thức – và ta không thể không làm điều đó. Ta cũng có khuynh hướng tin tưởng tuyệt đối khuôn mẫu của các nhóm xã hội mà ta xem mình là một phần trong đó. Trong một nghiên cứu, Bargh nhận thấy nhóm người tham gia được yêu cầu sắp xếp lại các từ liên quan đến tuổi già – “Florida,” “helpless” và “wrinkled” – thì đi bộ trên hành lang chậm hơn đáng kể so với nhóm sắp xếp các từ không liên quan đến tuổi tác. Bargh đã cũng tìm thấy xu hướng tương tự ở hai nghiên cứu so sánh khác áp đặt các khuôn mẫu dựa trên chủng tộc và sự lịch thiệp. “Khuôn mẫu là những phân loại vô lý,” Bargh chia sẻ trên trang Psychology Today. “Khi áp dụng khuôn mẫu, ta nhận thông tin về giới tính, tuổi tác, màu da của người đối diện, và tâm trí ta phản hồi bằng các thông điệp thù địch, ngu ngốc, chậm chạp, yếu đuối. Những phẩm chất đó không bắt nguồn từ môi trường bên ngoài. Nó không phản ánh đúng thực tế.” Tác giả: Carolyn Gregoire 7 thủ thuật tâm lý giúp bạn cải thiện tinh thần trong 1 phútCơ thể con người thật kỳ diệu, vừa yếu ớt vừa bền bỉ. Nó có thể làm nên những điều thần kỳ như sinh nở, chạy marathon, và tham dự cuộc họp phức tạp kéo dài 3 tiếng mà vẫn tỉnh táo. Cơ thể giúp ta đi từ điểm A đến điểm B, nhưng chính trí óc mới diễn giải, cấu trúc và định nghĩa cả thế giới – và hơn nữa là gán ý nghĩa cho thế giới. Rất tiếc là trí óc chúng ta không phải lúc nào cũng ngoan ngoãn. Nó có thể làm hại chúng ta bằng cách gửi đi những thông điệp tiêu cực, như “việc đó không bao giờ thành công đâu” hay “mi đúng là đồ tồi” – những tín hiệu từ não bộ này hủy hoại dần động lực và lòng tự trọng của ta. Nên bất kể là muốn vượt qua vòng phỏng vấn xin việc,muốn học giỏi hơn hay muốn vui lên, bằng cách nào bạn có thể khiến những suy nghĩ và cảm xúc giúp cho mình thay vì hại mình? Mừng là bạn đã hỏi ! Tôi là nhà tâm lý học, và tôi đã tóm lược từ một số quyển sách hay hiện nay về trí não ra 7 bài tập trí não đơn giản mà bạn có thể làm trong 60 giây. Những bài tập này có thể giúp bạn thành công hơn trong bất cứ việc gì bạn làm.
1. Yêu thích ngay tức thì – đừng cố tỏ ra hoàn hảo!Nếu bạn dành một tiếng đồng hồ tối nay để tập lại bài thuyết trình lần thứ n+1 thì việc bỏ đi xem ti-vi có thể sẽ là lựa chọn hay hơn. Hoá ra những người tài giỏi thật sự có vẻ thu hút và đáng yêu hơn khi họ phạm sai sót thay vì cố tỏ ra hoàn hảo. Nhà nghiên cứu tâm lý và tác giả của quyển 59 Seconds, Ric-hard Wiseman khám ra điều đó khi ông chọn 2 nữ diễn viên giới thiệu máy xay trước khán giả. Một người thì diễn rất đạt và trông có vẻ hiểu biết. Người còn lại gặp một số rắc rối: nắp của chiếc máy xay bung ra và cô làm đổ nước trái cây đầy người. Mặc dù đám đông thấy màn giới thiệu đầu tiên chuyên nghiệp và thuyết phục, nhưng diễn viên thứ hai lại được yêu thích hơn. Khi được yêu cầu giải thích đánh giá của mình,khán giả nói họ không có sự đồng cảm với diễn viên hoàn hảo đầu tiên, nhưng lại có cảm tình với diễn viên thứ hai vì cô ấy thể hiện phần “người” nhiều hơn. Một phút cải thiện tinh thần: Tôi không có ý khuyến khích bạn cố tình phạm nhiều lỗi ngớ ngẩn để được yêu thích, nhưng Wiseman nói rằng có một cách đơn giản giúp bạn tăng nhân tố này: bộc lộ điểm yếu của mình. Các nghiên cứu cho thấy những người sớm bộc lộ điểm yếu khi nói về bản thân sẽ được đánh giá là dễ gây cảm tình hơn.
2. Tương lai là cỗ máy tri thứcCó được khoảnh khắc “a ha!” thật ra dễ hơn bạn nghĩ nhiều. John Kounios và Mark Beeman, tác giả của quyển The Eureka Factor, nói rằng việc sử dụng trí tưởng tượng của bạn theo hai cách khác thường – một cách thay đổi hiện tại và một cách tác động đến tương lai –có thể giúp khơi gợi cảm hứng đang ngủ yên trong bạn. Một phút cải thiện tinh thần:
3. Thử áp dụng 4 bước chống trì hoãnBạn ngồi xuống để nghiên cứu hoặc chuẩn bị bài thuyết trình, và 45 giây sau bạn bị ý muốn kiểm tra email hoặc lướt Facebook khuất phục. Bạn làm việc 5 phút, rồi lại chìm đắm vào thông tin trên mạng xã hội. Jeffrey M. Schwartz giải thích vòng lặp vô ích này trong quyển You Are Not Your Brain. Khi ta có hành vi không lành mạnh, hành vi này khiến ta cảm thấy thoát khỏi tâm trạng buồn rầu, lo lắng, rồi nó lập trình cho não bộ để gắn hành vi với cảm giác hưng phấn tạm thời, từ đó khiến củng cố thói quen này hơn. Ví dụ, nếu não bộ gửi một thông điệp như “Mình không đủ giỏi,” và ta cố ngăn dòng suy nghĩ bằng cách hành động theo thói quen mỗi khi căng thẳng – như tìm kiếm lời an ủi trên Facebook – sau đó ta sa vào những giải pháp tạm thời này. May thay, có phương pháp gọi là Bốn Bước giúp bạn hướng tâm trí khỏi vòng lặp vô ích này và tập trung vào những việc quan trọng. Một phút cải thiện tinh thần:
4. Cải thiện hiện tại nhờ nhìn nhận lại quá khứNhững ký ức ta đã có sẽ tạo ra cuộc sống mà ta hiệnđang sống, nhưng thay vì hiện ra chính xác trong não bộ, ký ức được xây dựng lại theo quan niệm và lòng tin hiện tại của ta. Điều này có nghĩa là điều quan trọng nhất về quá khứ là suy nghĩ của bạn về nó. Đối với sự thật này, hãy nghe điều này – bạn thật sự nên lừa dối bản thân mình một chút. Nghiên cứu cho thấy rằng những người nhìn nhận quá khứ một cách tích cực thì hạnh phúc hơn, khoẻ mạnh hơn, và thành công hơn ở hiện tại so với những người suy nghĩ tiêu cực. Những người nhìn quá khứ theo hướng tích cực vẫn hạnh phúc hơn ngay cả khi thái độ tích cực của họ dựa trên những hồi ức không chính xác. Philip Zimbardo và John Boyd đề cập đến một nghiên cứu trong quyển sách của họ có tên The Time Paradox (Nghịch Lý Thời Gian),trong đó những nhà tâm lý học thấy rằng việc nhìn lại quá khứ qua lăng kính màu hồng là chìa khoá giúp xây dựng thái độ sống cần thiết để trân trọng cuộc sống hiện tại. Một phút cải thiện tinh thần: Bạn đã nghe câu này rồi, nhưng tôi vẫn muốn nhắc lại: lòng biết ơn là chìa khoá dẫn đến hạnh phúc. Dù không thể thay đổi quá khứ, bạn có thể thay đổi cảm nhận của bạn về nó. Hãy dành một phút nghĩ về những chuyện khiến bạn cảm kích, dù chuyện này xảy ra hôm qua, tuần trước, hay chỉ một vài tiếng trước. Chút chuyển hóa ý nghĩa tích cực có thể đủ để thay đổi toàn cảnh, và biến hình ảnh tiêu cực của quá khứ thành tích cực.
5. Mỉm cười để hạnh phúcNhà triết học theo chủ nghĩa thực dụng William James tin rằng nếu bạn hành xử giống như bạn đã sở hữu phẩm chất mình mong muốn, sau cùng bạn sẽ có phẩm chất này một cách thần kỳ. James khám phá ra ý tưởng này qua việc nghiên cứu những biểu hiện ở gương mặt, giả thuyết là mọi người không cười vì họ hạnh phúc mà họ hạnh phúc vì họ cười. Kết quả là ông đã đúng – và điều này đúng với hầu hết chúng ta. Nhà tâm lý học người Mỹ Paul Ekman phát hiện ra rằng kiểu nguyên lý này xảy ra trên toàn thế giới, ở mọi nền văn hoá, từ Mỹ đến những hòn đảo xa tít ở Indonesia. Khi mọi người trông sợ hãi, nhịp tim họ tăng lên và nhiệt độ của da thì giảm xuống. Khi họ cười, nhịp tim họ giảm và nhiệt độ của da tăng lên. Đây là một tin rất tích cực cho bạn vì điều đó có nghĩa là bạn có thể kiểm soát cảm xúc và tình trạng tinh thần nhiều hơn bạn nghĩ. Một phút cải thiện tinh thần: Bắt đầu ngày làm việc mà bạn thật sự không muốn đối mặt? Bạn sắp bước vào cuộc họp mà chắc chắn sẽ chiếm hết cả buổi chiều của mình? (Tiện thể, có lẽ bạn nên điều chỉnh việc đó.) Hãy mỉm cười. Hành động như thể mình rất hào hứng đi làm và cảm thấy cởi mở, thân thiện và bạn thật sự sẽ chuyển hành vi của mình theo hướng đó.
6. Trồng cây trong nhà để thêm sáng tạoTất cả chúng ta đều được định hình bởi môi trường. Hiện tượng này gọi là “khơi gợi”, và nó xảy ra ngay cả khi bạn không nhận ra.Dù bạn tin hay không thì ngoài việc lọc sạch không khí và làm căn phòng của bạn đẹp hơn một chút, cây cối và hoa lá cũng khơi gợi bộ não sáng tạo của bạn làm việc. Quyển 59 Seconds đề cập đến một nghiên cứu trong đó những nhà nghiên cứu hỏi một nhóm người làm nhiều công việc sáng tạo khác nhau trong phòng có trồng cây. Kết quả là những người dành thời gian bên cây xanh xử lý công việc sáng tạo tốt hơn nhiều việc khác. Một phút cải thiện tinh thần: Ghé vào cửa hàng bán cây cảnh. Đi ra ngoài trời. Hãy làm bất cứ việc gì bạn cần để gần gũi cây cối hơn, hãy làm ngay và tận hưởng dòng ý tưởng tuôn chảy.
7. Nói “có” với bài tập rèn luyện ý chíBạn có nghĩ sức mạnh ý chí của mình là yếu tố bẩm sinh không? Nghĩ lại đi! Bạn có thể rèn luyện ý chí tương tự như rèn luyện cơ bắp.Tốt hơn nữa, bằng cách thực hiện một thay đổi giúp tăng cường ý chí nho nhỏ, bạn cũng có thể củng cố khả năng kiểm soát trong những lĩnh vực khác của cuộc sống. Quyển Willpower của Roy F. Baumeister và John Tierney đề cập đến một nghiên cứu trong đó người tham gia vốn không phải là người có thói quen tập thể dục (nhưng muốn tăng cường sức khoẻ) được trao cho kế hoạch tập thể dục thường xuyên. Nhờ theo kế hoạch đơn giản này, sức mạnh ý chí của họ tăng lên ở khía cạnh khác: trong phòng thí nghiệm, nơi họ làm việc mà không bị chiếc ti-vi gần đó làm phân tâm, và trong đời thực, họ ăn uống lành mạnh hơn và làm việc nhà vui vẻ hơn. Khi rèn luyện khả năng tự kiểm soát bằng cách tuân theo kế hoạch tập thể dục, những người tham gia thí nghiệm này cũng tăng cường sức mạnh ý chí nói chung. Một phút cải thiện tinh thần: Baumeister và Tierney nói rằng khởi đầu nhỏ có thể tạo ra tác động lớn. Họ đề nghị ta quyết tâm nói “có” và “không” thay vì nói “ừ” và “thôi” như một cách dễ dàng giúp tăng cường sức mạnh. Bạn có sẵn sàng làm thử chưa? (Hãy nói có!) Tác giả: Johanne Schwensen
| |
Tác giả bài viết: Van Thanh
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn