Tiềm năng cơ thể người còn được gọi là “công năng đặc dị”, và ở phương Tây nó được biết đến với cái tên “hiện tượng Psi”, có nghĩa là “chưa biết”. “Hiện tượng Psi” đã được nghiên cứu theo hai loại chính: Tri giác siêu cảm và trạng thái xuất thần.
“Tri giác siêu cảm” là chỉ khả năng có được năng lực tri giác mà không qua các giác quan, bao gồm tha tâm thông hay cảm ứng từ cự ly xa , công năng thấu thị hay thiên mục, công năng dao thị hay nhìn xa, công năng túc mệnh thông hay biết trước tương lai và nhớ lại quá khứ.
“Trạng thái xuất thần” là chỉ khả năng ảnh hưởng hay thao túng thế giới vật chất bên ngoài mà không cần động tay hay động chân, bao gồm công năng ban vận hay dùng ý niệm di chuyển vật thể, dùng ý niệm điều khiển thiết bị điện tử, hoặc thúc đẩy hạt giống nảy mầm, …
Trong hơn 70 năm nghiên cứu thực nghiệm, người ta đã chứng thực được sự tồn tại của những công năng này. Các nhà khoa học đã nhận thức thêm và hiểu rõ hơn rằng những công năng này đều bắt nguồn từ một dạng năng lượng tâm lý bí ẩn, điều mà sinh lý học hiện đại đã công nhận.
Để vén bức màn bí ẩn bao phủ các tiềm năng của cơ thể người, người ta phải đột phá những rào cản cố hữu mà khoa học hiện đại dựng nên và thiết lập một cách tiếp cận mới để nhận thức cơ thể người và vũ trụ.
Vào cuối năm 2001, cuốn sách “Nghiên cứu cơ sở về cận tâm lý” đã được biên soạn và xuất bản bởi nhà cận tâm lý nổi tiếng, K.R. Rao. Cuốn sách điện tử này đã tổng kết các thí nghiệm trong lĩnh vực cận tâm lý và sau đó phân tích kết quả. Qua tham khảo cuốn sách này, chúng ta có thể thấy được sự tiến bộ trong nghiên cứu lĩnh vực cận tâm lý và cùng nhau thảo luận về các bí ẩn của cơ thể người.
Chuỗi thí nghiệm Pearce-Pratt và công năng nhìn xuyên thấu
Công năng thấu thị chỉ khả năng nhìn một đồ vật bị che khuất hoặc được ngăn cách bằng một bức tường. Thí nghiệm kinh điển trong lĩnh vực này chính là chuỗi thí nghiệm Pearce-Pratt.
Năm 1934, TS. J.B. Rhine thuộc Đại học Duke ở Hoa Kỳ đã thiết kế 5 bộ thẻ được gọi là Thẻ Trắc nghiệm Siêu cảm. Trên mỗi bộ thẻ là một hình vẽ đơn giản: hình tròn, hình vuông, hình chữ thập, hình sóng nước và hình ngôi sao.
Nơi giúp bạn khám phá những điều bí ẩn của cuộc sống và nuôi dưỡng tâm hồn. Xem bài viết hay về Tâm linh, đọc và suy ngẫm ... |
Bằng việc sử dụng 5 bộ thẻ này, ông và cộng sự, TS. J.G. Pratt, đã tiến hành một chuỗi thí nghiệm trên một học sinh, H. E. Pearce, Jr., người tuyên bố là có công năng thấu thị.
Các thí nghiệm được tiến hành 34 lần trong khoảng thời gian từ tháng 8/1933 đến tháng 3 /1934. Năm loại thẻ (tổng cộng 25 thẻ) đã được sử dụng vào mỗi lần thí nghiệm. Người được thí nghiệm, Pearce, Jr., ngồi trong một căn phòng nhỏ tại thư viện Đại học Duke, trong khi cộng sự Pratt ngồi trước một chiếc bàn ở tòa nhà cách nơi mà ông có thể thấy Pearce từ 100-200 thước.
Trước khi thí nghiệm bắt đầu, Pratt trộn một cách ngẫu nhiên những tấm thẻ và đặt chúng ở phía bên phải chiếc bàn, với mặt thẻ có hình úp xuống. Một cuốn sách cũng được đặt ở giữa chiếc bàn.
Ngay khi thí nghiệm bắt đầu, Pratt chọn một tấm thẻ bằng tay phải và đặt nó lên cuốn sách với mặt có hình úp xuống. Cùng lúc đó, Pearce cố gắng đoán xem hình trên chiếc thẻ là gì. Một phút sau, Pratt dùng tay trái để chuyển chiếc thẻ từ cuốn sách sang phía bên trái của chiếc bàn với mặt thẻ úp xuống, và rồi chọn tấm thẻ tiếp theo bằng tay phải.
Với mỗi chiếc thẻ được chọn trong vòng một phút, quá trình này tiếp tục cho tới khi 25 chiếc thẻ được lấy hết. Những chiếc thẻ luôn được đảm bảo là úp xuống trong toàn bộ quá trình, và cả Pearce và Pratt đều không thể nhìn thấy các hình vẽ.
Sau khi hoàn thành lượt đầu tiên của thí nghiệm, Pearce sẽ ghi lại đáp án vào một tờ giấy, gói kín trong một phong bì và đưa cho TS. Rhine. Pratt cũng ghi lại đáp án mà ông cố gắng đoán rồi đưa riêng nó cho TS. Rhine. TS. Rhine mở cả hai phong bì và sau đó tiến hành phân tích kết quả thống kê. Pratt và Pearce cũng so sánh kết quả thống kê của TS. Rhine với đáp án mà họ tự lưu để xem có sai sót nào không. Toàn bộ quá trình thí nghiệm rất tỉ mỉ, kỹ càng, và kết quả thống kê thu được là rất chính xác.
Phân tích thống kê cho thấy trong 74 lượt thí nghiệm với 1.850 chiếc thẻ được chọn, độ chính xác trong đáp án của Pearce là hơn 30%. Điều này vượt qua xác suất thống kê khi đoán ngẫu nhiên chỉ là 20%. Thí nghiệm này đã được công nhận rộng rãi trong lĩnh vực tâm lý học và TS. Rhine cũng được ca ngợi như là cha đẻ của bộ môn cận tâm lý đương đại.
Nhiều nhà khoa học sau đó đã làm lại thí nghiệm này và cũng thu được kết quả tương tự. Điều này đã chứng thực sự tồn tại khách quan của công năng thấu thị.
Tại sao Pearce có thể thấy được vật thể được che khuất từ một cự ly xa như vậy? Vấn đề này, điều mà các nhà khoa học nghĩ rằng thần bí và khó giải thích, có thể được hiểu một cách đơn giản bởi giới tu luyện.
Họ cho rằng ở bộ phận phía trước thể tùng quả của cơ thể người đã được trang bị kết cấu hoàn chỉnh của một con mắt người, và y học hiện đại gọi nó là một con mắt thoái hóa. Trên trán người, ở giữa hai lông mày hơi chếch lên trên một chút, có một đường thông kết nối với con mắt này, con mắt ở phía trước thể tùng quả.
Nếu một người có thể nhìn trực tiếp bằng con mắt này thông qua đường thông thay vì nhìn bằng con mắt thịt, thì người ấy có thể có sẵn lực xuyên thấu, thậm chí nhìn được những sự vật mà mắt thường nhìn không thấy. Đây là điều mà giới tu luyện gọi là “thiên mục”, hay con mắt thứ ba. Rất có thể Pearce đã dùng thiên mục để nhìn những chiếc thẻ kia. Trong trường hợp này, sẽ không có gì là thần bí khi anh có thể có lực xuyên thấu như vậy.
Theo Chánh Kiến
Những công năng đặc dị của con người đã được thế giới công nhận hiện nay gồm có: công năng dịch chuyển, nhận biết vật thể bằng bộ phận khác ngoài con mắt, dao thị, thấu thị, dự đoán, truyền cảm tâm linh.
1. Công năng ban vận (dịch chuyển đồ vật từ xa)
Từ những năm cuối thể kỷ 19, một phụ nữ người Ý tên Eusapia Pallandino đã được phát hiện và chứng minh có công năng đặc dị. Người ta đã tiến hành một lượng lớn các thí nghiệm về công năng dịch chuyển, những cuộc thí nghiệm này còn lưu lại rất nhiều tư liệu đáng tin cậy.
Những người có công năng dịch chuyển có thể khiến cho vật thể bị phong kín trong ống thủy tinh đột phá chướng ngại của không gian và dịch chuyển ra bên ngoài ống thủy tinh. Những máy quay phim tốc độ cao đã quay chụp lại được toàn bộ quá trình đột phá chướng ngại không gian này một cách rõ ràng.
2. Nhận biết vật thể bằng bộ phận khác ngoài con mắt
Không thông qua con mắt thịt của cơ thể con người chúng ta, mà là thông qua những bộ phận khác của cơ thể như tai, ngón tay, bàn tay, gót chân, … để nhận biết màu sắc, hình ảnh, chữ viết, v.v… Các nhà khoa học đã tiến hành một lượng lớn thí nghiệm đối với loại công năng này và đã xác nhận nó thật sự tồn tại.
3. Truyền cảm tâm linh
Không cần đến các bộ phận cảm quan, giữa hai người với nhau, một phía hay hai phía truyền đi tín tức trong tư tưởng tâm linh.
Những thí nghiệm của tiến sĩ Honzan, Nhật Bản đã chứng minh được rằng năng lực ý chí có thể đi qua căn phòng thành công truyền đến người được làm thí nghiệm (mà sóng điện từ không cách nào đi xuyên qua được).
Thí nghiệm còn chỉ ra rằng truyền cảm tâm linh giữa hai người có xu hướng hợp nhau càng rõ ràng hơn.
4. Thấu thị (nhìn xuyên qua)
Đây là loại công năng, không cần phải dùng đến bộ phận cảm giác thông thường (con mắt) mà có thể “nhìn” xuyên qua chướng ngại vật để nhận biết trạng thái bên trong của vật thể.
Năm 1930, học giả người Mỹ JB Rhine trong phòng thí nghiệm tâm lý học siêu nhiên của trường đại học Duke đã dùng 25 tấm thẻ ESP (các thẻ này không cùng hình dạng hoa văn) tiến hành thí nghiệm có tính mù đôi. Tổng cộng đã tiến hành quan sát đánh giá hơn 85.000 lần, phát hiện xác suất thành công của người được trắc nghiệm luôn luôn vượt cao hơn xác suất ngẫu nhiên thông thường. Kết quả này đã chứng minh công năng nhìn xuyên thấu là có tồn tại.
Những trung y nổi tiếng thời Trung Quốc cổ đại đều luôn có công năng đặc dị nhìn xuyên thấu đồ vật. Về điểm này trong sử sách có ghi chép lại. Ví như Hoa Đà biết được có khối u trong não của Tào Tháo, Biển Thước trị bệnh tình bên trong cơ thể của Tề Hoàn Công, v.v…
5. Dao thị (công năng nhìn xa)
Đây là loại công năng mà có thể miêu tả lại một cách chuẩn xác về cảnh vật hay sự kiện của một nơi nào đó mà người có công năng chưa từng ghé đến.
Vào những năm 60, thí nghiệm của “nhóm người quay phim” SRI International đã chứng thực sự tồn tại của loại công năng này. Những người có công năng dao thị tập trung ở một địa điểm làm thí nghiệm, mỗi người được bố trí mấy “nhân viên quay phim” một cách ngẫu nhiên. Những nhân viên quay phim này được cử đến các nơi toàn nước Mỹ, có một vài người còn được cử ra nước ngoài. Họ được yêu cầu ghi chép lại nhân vật hoặc sự việc phát sinh mà họ nhìn thấy được trong môi trường xung quanh họ vào một thời gian đặc định nào đó (thời gian thí nghiệm). Và những người có công năng dao thị thì được yêu cầu miêu tả lại sự vật mà một vị nào đó trong mấy nhân viên quay phim này nhìn thấy.
Toàn bộ thí nghiệm được giữ theo tính ngẫu nghiên. Kết quả chứng minh, miêu tả của một số người có công năng hoàn toàn giống với tình huống thực tế, điều này đã chứng minh công năng dao thị thật sự là có tồn tại.
6. Dự đoán (tiên tri)
Có thể đoán trước được những sự việc sẽ xảy ra trong tương lai. Thí nghiệm nổi tiếng nhất là thí nghiệm vẽ tranh của Carrington. Người được làm thí nghiệm trong khi hoàn toàn bị gián cách có thể thành công vẽ ra các bức tranh mà Carrington vẽ ra trong quá khứ và tương lai dựa trên nguyên tắc ngẫu nhiên. Điều này chứng tỏ người được thí nghiệm có năng lực biết quá khứ và tương lai.
Nhà y học nước Pháp E Ostia đã làm thí nghiệm với những chiếc ghế ngồi. Người được thí nghiệm có thể đoán trước những người nào sẽ ngồi vào ghế nào trong mấy giờ đồng hồ trước đó, và xác suất thành công luôn luôn lớn hơn so với xác suất thông thường.
Tác giả bài viết: Tiểu Thiện, dịch từ NTDTV
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn